Năm con đường và một khoảng trống

09:48 08/08/2011
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Có thể “Năm mặt đặt tên” là sự bất lực của việc đặt tên. Nhưng đó là sự bất lực cần thiết, vì thơ là thế giới riêng của mỗi tâm hồn, họ không thể đặt một tên chung cho cả năm tác giả, có thể đó là lý do tập thơ có nhan đề “Năm mặt đặt tên” ra đời. Năm gương mặt thơ rất quen thuộc của Huế như năm sắc màu hòa lại, để tạo ra một bức tranh thơ nơi xứ sở Thần kinh. Bức tranh đó bắt đầu từ nét cọ giữa khuya khi mù sương tan biến:

tôi nâng bụm tay mình lòng trứng/ nghe khôn ngoan nở dại bên đời
không còn gì để nói/ cũng bằng thất thố giang sơn
em ở lại cho lòng tôi mở hội/ khuya hết sương mù lại nói yêu nhau…

Đông Hà là nữ tác giả duy nhất trong tập thơ in chung “Năm mặt đặt tên”. Nhịp điệu thơ mạnh mẽ mà rất gần gũi, với bút pháp ẩn dụ, chị đã tạo ra những khoảng trống đưa người đọc rơi vào cảm nghiệm bất ngờ:

Cắt những khoảng trống dán vào nhau/ bần bật phúc âm bần bật nhớ

Và bất ngờ hơn cả là tình yêu thương được đo bằng chiều dài đất nước:

Anh đưa em đi cong cả chữ S thân thương này/…/
Trái tim già nua chưa em/ Mà sao tiếng còi tàu nghe mỏi mệt

Để lại dấu ấn lạ và vết khắc u buồn của thời gian, qua sự chiêm nghiệm về một cuộc sống lặng lẽ vào bức tranh “năm mặt đặt tên” là bác sĩ Đặng Như Phồn, với từng nhịp guốc loanh quanh trên cổ tích phố khi mùa hạ về:

Em tự dưng gõ nhịp guốc ngân dài/ Lên nẻo phố rêu phong cổ tích

Và có lẽ những nỗi niềm sâu kín của tác giả, tưởng rằng đã ngủ yên cùng đá sỏi lại bất chợt thức giấc khi lắng nghe được âm vang từ gót hạ:

Ta sỏi đá nghìn năm thức giấc/ Nghe mơ hồ cây cỏ gọi tên nhau

Để rồi sau những giờ khoác áo blouse, anh bất chợt chạm vào khoảng trống của thời gian mà chiêm nghiệm với cuộc người:

Buồn như tờ lịch không ai xé/ Một ngày lần khân chẳng chịu rơi/ Đưa tay chạm vào khoảng trống/ Rút về một thoáng phân vân

Có thể nói rằng, Lê Tấn Quỳnh đã đùa chơi với câu chữ một cách công phu cho đến hơi thở cuối cùng:

Biển đã thở đến hơi thở cuối cùng/ Trong đôi mắt láo liêng của loài còng gió
Loài cổ sinh ướp cả nghìn năm nỗi nhớ/ Trong cái mặn mòi nơi kết thúc của dòng sông

Trong cuộc chơi đầy mạo hiểm đó, anh chợt nhận ra cuộc trở về cũng hư ảo như con sóng:

Biển đã thở đến hơi thở cuối cùng/ Sau cơn mối mọt no nê/ Nơi ngả người vô hạn/ Sóng như cuộc trở về…

Và phải chăng với Lê Tấn Quỳnh sau khi đã tàn cuộc, tất cả chỉ còn lại trong kí ức:

Thời gian là cuộc ngược treo ngốc nghếch/ Trên cơn ngơ ngác của bầy dơi
Nơi hốc hang cứ triền miên thót lại/ Những dấu chân thơ thẩn ký ức người…

Chữ của Lê Vĩnh Thái như buông những mảng màu gợi lên đường nét siêu thực trên bức tranh thơ, nhưng tàn ẩn trong vệt màu đó là một cõi hồn rưng rức nỗi niềm:

Ngày, vốc từng mảng trời buông nắng/ đêm, sũng ướt vầng trăng
mùa đổ lá theo dòng tiền sử/ người chở nỗi buồn rao bán ven sông

Từ trong thăm thẳm miền buồn, bức chân dung tự họa của Thái đã ra đời theo vòng quay nắng mưa thị thành:

những điếu thuốc lụi dần theo khói/ tôi đốt đời mình trong ánh mắt quen/ thơ chẳng còn chi/ vuột từng câu chữ/ quay theo mưa nắng thị thành/ những lối mòn vào đời khập khểnh/ nhiều khi/ vác mặt đứng nhìn/ từng ánh mắt chào nhau nghiêng ngả

Để rồi, đêm đêm tác giả lại tự vấn với chính mình:

nhiều đêm,/ trước gương/ soi chiếc mặt rách in đầy hèn nhát
câu nói ngông cuồng chờ chực, rượu vào mà chẳng thể thốt ra

Với Phạm Nguyên Tường, nỗi ám ảnh từ cuộc sống, từ nghề y đã hóa thân vào thơ rất tự nhiên như thể, thơ thoát thai từ hơi thở gấp từ hội chứng của những trái tim:

Trên cả nước hiện còn bao nhiêu lò ấp “thơ an toàn”/ không có melanmine trong trứng thơ/ chực nở

Đó là một câu hỏi ở thể khẳng định, khi mà nhân tính ngày càng lùi vào bóng đêm để nỗi chết được phóng sinh:

Vào đám mây vần tín điều xám kịt/ Phóng sinh nỗi chết

Và cái ranh giới sống chết không được phân định rõ ràng, để nỗi đau từ cõi lòng của người thơ phải tra hỏi chính mình:

bàn tay khum khum lòng bấn loạn/ chắc gì thua (được) chập choạng thế này
sống như chết rồi/ chết như sống rồi

Có thể nói rằng, năm sắc màu trong “Năm mặt đặt tên” như năm con đường, những sắc màu đó hòa lại cùng nhau đã không để lại một vệt màu chết nào, mà tạo ra được một khoảng trống lồng lộng ngữ nghĩa. Có được điều đó là do những khoảng trống bên trong mỗi tác giả, đó chính là cái chung của nghệ thuật luôn hướng về phía chân trời thiện mỹ.

Huế, 5-2011
L.H.L
(269/07-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANG(Trích Chân dung nhà văn soi chiếu bằng Kinh Dịch)Nhà văn Nguyễn Sinh Tuân sinh ngày 10 - 7 - 1910 tức năm Canh Tuất (Nhà văn Việt Nam hiện đại. Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 1997).

  • HOÀNG CẦM(cảm nhận qua tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo)Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu... như anh ta.

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINHI.“Ta rồi chết giữa mùa màng”(*).

  • TRỊNH MINH HIẾU(Đọc Tiền định của nhà văn Đoàn Lê NXB Hội Nhà văn 2009)Tác phẩm “Tiền định” của nhà văn Đoàn Lê vừa được Công ty cổ phần sách Bách Việt đưa vào chung khảo Giải thưởng Bách Việt lần thứ nhất.

  • THANH TÙNGLarry Rottmann sinh ngày 20-12-1942 ở tiểu bang Missourri. Ông thường nói: tôi sinh khác năm nhưng cùng ngày với ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Larry Rottmann hay để ý tìm kiến những điều mà cuộc đời ông gắn bó, liên quan đến Việt Nam.

  • MINH KHÔI…Hải Bằng là nhà thơ cách mạng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày mới vào Việt Minh anh được phiên vào Trung đoàn 101 nổi tiếng vùng Trị Thiên, hành quân qua khắp các chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Cam Lộ, Do Linh... Rồi anh sang chiến đấu tại mặt trận Lào, về Thanh Hóa… Trong lai cảo thơ của anh để lại còn có những trường ca chưa in như “Đoàn quân 325”, “Bài thơ rừng hoa Chăm pa”, “Lòng em theo tiếng khèn”…

  • NGÔ THỜI ĐÔNSống một đời không dài lắm và đón nhận quá nhiều nỗi phiền ưu vì đất nước, dân tộc, thời cuộc, gia tộc và bản thân song với lòng yêu đời, thương người sâu sắc, Miên Thẩm đã để lại một sự nghiệp trứ tác đồ sộ, không thua kém các đại gia trong văn chương trung đại của dân tộc.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNNgồi chung một chuyến xe trong một lần cổ ngoạn Mỹ Sơn, nhà thơ Hồng Nhu trao cho tôi tập thơ "RÊU ĐÁ", tập thơ thứ tư của anh do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 1998.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Nhân đọc TRONG CĂN NHÀ SÀN BÉ NHỎ)(*)

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU Trong hành trình "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó là truyện ngắn của anh. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới: thơ ca và triết lý, nó truyền thống và hiện đại, phương Đông và toàn nhân loại.

  • THÁI DOÃN HIỂUĐể nối hai bờ suy tưởng tâm linh và vũ trụ, nhà toán học Lê Quốc Hán (*) đã bắc một chiếc cầu thơ.

  • HÀ VĂN THÙY(Nhân đọc Văn học - phê bình, nhận diện của Trần Mạnh Hảo)

  • LÊ VIẾT THỌ(Đọc "Ngọn núi ảo ảnh" - bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường - NXB Thanh niên tháng 1-2000)

  • ĐỖ NGỌC YÊN Phế đô là một trong những cuốn tiểu thuyết đương đại của Trung Quốc,  do Tạp chí Tháng Mười xuất bản từ năm 1993. Ngay sau đó nó đã có số bản in đạt vào loại kỷ lục, trên 1. 000. 000 bản tiếng Trung Quốc.

  • VƯƠNG HỒNG HOAN

    "Trăng Thương Bạc" là tập thơ của 47 hội viên của câu lạc bộ Hương Ngự do Nhà xuất bản Thuận Hóa in kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Huế.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.