KIMO
Mười Cents, một đồng xu nhỏ nhất, mỏng nhất được gọi là “dime” và đồng xu nầy được đúc với chất liệu 90 phần trăm bạc và 10 phần trăm đồng như đồng xu năm cents và 25 cents nhưng lại khác với đồng xu một cent.
Đồng xu mười cents - Ảnh: wiki
Mỗi đồng xu tiền đều có một lịch sử đặc trưng riêng biệt của từng giai đoạn lịch sử của nước Mỹ và những đồng xu là phương tiện cần thiết trao đổi về mọi hình thức trong quốc gia, hầu như những đồng xu nầy rất thiết thực gần hết ở các quốc gia trên hoàn cầu chứ không riêng gì nước Mỹ. Đồng bạc mười cents nhỏ hơn cả đồng một cent, vòng tròn chu vi lớn 17.91 mm, độ dày 1.35 mm, và quanh vòng tròn có 118 răng cưa. Một bên của đồng mười cents được in khuôn mặt Franklin D. Roosevelt, Tổng thống thứ 32 của nước Mỹ, mặt khác in hình nhánh oliu tượng trưng cho “hòa bình”, ở giữa là ngọn đuốc tượng trưng cho “tự do” và nhánh sồi tượng trưng cho sự “giàu mạnh” của quốc gia. Nhưng mười cents ở đây là một câu chuyện đánh dấu bước ngoặc một cuộc đời của người con gái trên xứ lạ quê người mang tính chất giá trị của một đời sống, một tinh thần tự trọng và một tấm lòng hiếu thảo.
Câu chuyện mười cents bắt đầu của cô sinh viên trong ngôi trường Đại học Harbor College xảy ra một ngày vào giữa tháng tư, giữa một mùa học và cũng là dấu hiệu mùa hè sắp đến nên sinh viên học sinh bắt đầu kiếm việc làm để vào mùa hè không bị thiếu hụt cho một đời sống đơn thân độc mã, một đời tự lập mà cũng là một đời xa xứ, xa gia đình và trong đó có tôi. Hình ảnh cô sinh viên nghèo nhưng tâm hồn lại không nghèo, mang ba lô trên vai chạy ra con lộ chính đón xe bus đi đến thành phố Carson để xin việc làm mà trên tờ báo Los Angeles Time mới đăng tin nhận người làm cho khâu dây chuyền từ chiều qua. Khâu dây chuyền là một công việc thấp nhất ở nước Mỹ với giá lương 3 đồng 25 cents cho đến 3 đồng 75 cents, tuy là đồng lương thấp nhưng rất đông người đi xin việc làm vì đó là công việc dành cho những công nhân không có trình độ học vấn, cho những người dân cư mới mẻ như dân tị nạn và cũng là công việc cho những sinh viên nghèo, trong giới làm khâu dây chuyền phần nhiều là sắc dân thiểu số như Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân, Tàu và Việt Nam và tôi là cô sinh viên nằm trong hai diện nói trên.
Xe bus vừa dừng lại trên con đường Pacific Hwy, là con đường dài nhất mà ngày đó chưa lái xe nên chưa biết con số của nó mà chỉ biết là dài lắm, con đường lúc nào cũng đông đúc xe qua lại, nhiều quán ăn và cũng nhiều quán bán đủ thứ trên đời mà hầu như tôi chưa hề biết qua mà cũng không dám bước vào để xem. Nhìn đồng hồ trên tay gần một giờ trưa nên cái bụng teo tóp của tôi nghe cồn cào, quán McDonald bán hamburger bên kia đường làm cho bụng thêm cồn cào; đèn xanh vừa lên, đôi chân nhanh nhẩu băng qua đường không còn ngại ngùng sợ hãi. Làm sao quên cho được ngày đó, cái ngày cả buổi sáng không có gì ngoài ly sữa, bước qua khỏi cửa là đứng sắp hàng chờ đến phiên mà nghe cái bụng đói meo vì mùi thơm của hamburger, khoai tây chiên và bánh táo nướng, nhưng đứng sắp hàng hơn cả mười phút mới đến phiên tôi mua phần ăn.
Cô bán hàng “hello” lịch sự không quên kèm theo nụ cười với tất cả mọi người. Tôi không chờ đợi câu hỏi mà đã trả lời: “BigMac, khoai tây chiên và ly nhỏ coca cola”, không cần suy nghĩ vì tôi đã đọc và đã ngắm hơn mười phút với cái bụng cồn cào.
Cô bán hàng lập lại với giá tiền 2 đồng 50 cents. Tôi lôi từ trong ví nhỏ đựng tiền còn đúng 3 đồng nhưng đã mua rồi, tôi không thích thay đổi, lúc đó tôi cũng có thể không mua “khoai tây chiên” nhưng đói quá nên cứ để yên như vậy.
BigMac ngày đó, ngon và hấp dẫn nhất của quán thức ăn nhanh McDanold, trong miếng bánh mì dày có thịt bò, xà lách, dưa leo ướp chua gọi là “pickle” và sốt cà. Một phần ăn của hamburger, thường có khoai tây chiên và nước soda kèm với nhau nhưng khách hàng cũng có thể mua hamburger riêng mà không cần khoai tây hay nước ngọt hoặc café. Hôm đó đói quá nên tôi cũng quên bẵng đi tiền trong túi không còn nhiều chỉ biết là sau khi mua xong phần ăn tiền thối còn lại 50 cents chẵn, không hơn không kém. Cho đến lúc đón chuyến xe bus đến đường Avelon xin việc làm mới biết là mình thiếu mười cents để chuyển qua chuyến xe bus về nhà. Thiếu tiền chuyển xe bus trong bụng ngồi lo lắng lắm, nếu tôi nói thật với người tài xế có lẽ ông tài xế xe bus cũng cho nhưng tôi lại không xin mà chỉ nghĩ, bụng ăn thì dạ chịu chứ không xin ai.
Xe bus bỏ tôi xuống trạm xe bus, góc ngã tư Avelon và Carson, tôi băng qua đường đi vào con đường nhỏ Lakme Ave, đến công ty American Magnetic Corporation. Tuy là thức dậy sớm nhưng tôi cũng đã chuẩn bị cho mình một bộ đồ chỉnh tề, quần tây xanh noa, áo sơ mi trắng, choàng ngoài áo len màu xanh đậm có pha sọc màu đỏ đậm rượu chát và trắng bao bọc vòng vai, cổ tròn ôm kín vòng cổ áo sơ mi, thêm đôi kính cận với mái tóc óng mượt xõa ngang vai xem cũng thanh nhã lắm. Nhìn bề ngoài thanh nhã của một sinh viên vừa mới ở ngưỡng cửa xâm nhập cuộc đời nên tôi đã lấy được lòng người phụ nữ da trắng trong văn phòng nhận đơn. Sau khi điền đơn xong tôi đứng chờ cô thư ký ngước lên để đưa vào, cô thư ký trẻ ngoài 30 nhìn tôi cười thật dễ thương. Cô đọc lướt qua phần xin nghề và học vấn rồi nhìn tôi hỏi:
- Tại sao cô xin làm khâu dây chuyền khi đã có học nghề vẽ?
Tôi trả lời: “Tôi chỉ muốn có việc làm nhanh để có tiền trả tiền phòng và học tiếp”.
Tôi đã xin đơn làm khâu dây chuyền nhưng cô thư ký cứ khăng khăng để cho tôi làm việc văn phòng mới thích hợp hơn. Cô tự giới thiệu tên:
- Tôi tên Debby!
- Và cô là Kimona, tôi đọc tên cô có đúng không?
Tôi cười, “tạm được” nhưng gọi tôi là Kimo cho dễ nhé!
Debby bảo tôi ngồi chờ để đưa đơn vào cho Manager xem và ông ấy sẽ phỏng vấn tôi trong giây lát, tôi nóng lòng chờ việc nên quên hết những gì xảy ra cho mình trong giây phút tới.
“Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”!
Tuy là được sinh trong một gia đình trung lưu nhưng “Ông Trời” đã bao dung rộng lượng cho tôi một bản năng tự lập khi tuổi chưa lên mười vì cha mẹ lo buôn bán làm ăn nên dịch chuyển liền tù tì năm nầy ở đây và năm sau ở nơi khác, miễn là có người chịu nhận săn sóc nhưng không ngờ đó là gói hành trang “Ông Trời” đã dành cho tôi từ những năm tháng ở quê nhà.
Sau một thời gian ngắn chờ đợi được phỏng vấn, nụ cười nở trên môi thật tươi vì công việc đến với tôi ngoài sức tưởng tượng. Tôi được nhận vào làm thư ký cho văn phòng kỹ sư với đồng lương 5 đồng 65 cents và công việc trong bước đầu cũng được tùy thuộc vào giờ học. Mừng quá tôi quên đi con dường dài nhọc nhằn sắp đến.
Mười cents bây giờ có kiếm ra đi nữa cũng đã quá muộn vì bây giờ tôi cần có 50 cents mới mua được một vé xe bus về nhà. (Ví dụ cụ thể: Chuyến xe đi từ Đông Ba về An Cựu là 50 cents, nhưng nếu muốn đi thêm một chặng đường từ An Cựu về Phù Lương là phải trả thêm 10 cents, nhưng vì thiếu 10 cents nên Kimo phải đi bộ từ bến xe An Cựu đến Phù Lương là vậy đó). Tôi vội vã đi nhanh ra con đường chính và đi dọc trên bờ lề dành cho người đi bộ, ba lô nặng trĩu sách vở trên vai, cộng thêm một ngày dài mệt mỏi, bước chân tôi cố bước nhanh hơn nhưng tôi lại càng thấy chậm hơn khi đến ngã tư Avelon và Pacific Coast Hwy. Tôi bấm nút đèn để dấu hiệu đi bộ xuất hiên nhanh hơn, nhìn dấu hiệu màu đèn đỏ mà lòng chùng xuống sau giây phút vui mừng khi nghĩ đến con đường không biết còn bao xa và nghĩ đến bài vở ngày mai làm lòng tôi rối bời không còn nhẫn nại.
Mặt trời giữa tháng tư không rực nắng nên cái lạnh cũng nhanh vây quanh khi trời chưa tối, nhìn thấy ánh đèn màu vàng bên đường cũng đã lên bỗng dưng đôi mắt tôi chợt ướt, chợt thấy mình quá bơ vơ và cảm thấy mình cần có gia đình hơn bao giờ. Đã lâu, không biết từ thuở nào cho đến bây giờ, tôi mới ao ước được sống cạnh gia đình và chưa bao giờ ao ước như lúc nầy đây vì tôi cần sự đầm ấm, cần một câu an ủi, cần một thứ tình ấm áp của tình thân. Dòng nước mắt nóng chợt lăn dài trên làn da lạnh sắp về đêm, tôi ngửa mặt lên trời trong tiếng khóc không lớn nhưng cũng đủ phát ra âm thanh nức nở, “con khổ quá mẹ ơi”! Bước chân chậm rãi băng qua đường trong thiếu thốn tình thân, tiếng còi xe đưa tôi về hiện tại, làm cho tôi mệt mỏi cũng phải chạy thật nhanh qua bên kia đường. Tôi nhớ đến hình ảnh của mẹ ngày nào hai tay nặng trĩu với bóng dáng cao gầy như xiêu vẹo trên chiếc cầu Bình Triệu. Mẹ chưa một lần than thở vì cực khổ mà chỉ hay thở dài vào những buổi sáng cùng cha trong mái tranh đìu hiu của vùng kinh tế mới.
Mẹ thở dài tội nghiệp cho tôi, sinh sau lớn muộn nên mẹ không còn gì để cho và lo sợ cho tương lai tôi tăm tối.
Từ trong trái tim tôi âm thầm xin lỗi mẹ. Tôi tự trách mình đã vội quên đi bản năng sinh tồn trời đã ban cho từ thuở thiếu thời. Tôi mỉm cười trong tiếng “ô hay”; ngày đó tôi đã xin ông trời cho tôi được ra đi, cho dù có nhọc nhằn cực khổ miễn sao tôi đưa cha mẹ ra được cảnh thiếu thốn nghèo nàn, tại sao lại than van khi công chưa thành, danh chưa toại. Chân tôi nhanh hơn trong từng bước vững vàng, lòng không còn cảm thấy bơ vơ, không còn cảm thấy lạnh mà con đường cũng chẳng còn thấy dài bởi hình bóng cao gầy như xiêu vẹo của mẹ trên chiếc cầu Bình Triệu của năm nào, đã làm cho tôi sống lại và sống quật cường hơn. Câu chuyện “Mười Cents” của năm 1983 hồi đó, thỉnh thoảng được nhắc lại khi có người hỏi đến những ngày xa xưa đã qua; câu chuyện đã qua đi bao thập niên nhưng trong lòng tôi vẫn đong đầy cảm xúc, hình ảnh cao gầy như xiêu vẹo của mẹ ngày nào trên chiếc cầu đó vẫn sống động trong lòng. Mười cents thật là nhỏ nhưng trong lòng tôi chưa bao giờ thấy nhỏ, cứ mỗi lần nắm những đồng tiền cents bỏ vào hũ lớn cho đến lúc đầy, tôi đem ra đếm rồi xếp theo từng loại và những đồng bạc cents của tôi cũng được đóng góp cho những mảnh đời thiếu may mắn trên cõi trần gian này.
Cali 2014
K.M
(SDB16/03-15)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).