Một cách tiếp cận bài thơ " Đây thôn Vĩ Dạ"

16:31 18/08/2008
THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

Nhưng vấn đề là, dù tiếp cận từ góc độ nào cũng không thể phá vỡ chất thơ, hiểu và cảm sai ý thơ, tình thơ mà cần phải cảm nhận cho được hồn thơ toát lên từ câu chữ và vần điệu. Bởi đọc thơ là đi tìm tiếng nói đồng cảm. Mỗi bài thơ là một tiếng lòng mà nhà thơ muốn giãi bày, thổ lộ, kí thác mà sâu xa là mong ước được gặp tiếng lòng tri âm, tri kỉ. Tình trong thơ là tình riêng của một người nhưng cũng chính là tình chung của bao người. Chính cái tính chất vừa cụ thể vừa có sức khái quát rộng lớn ấy là đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Vì vậy, đọc bài thơ phải cảm nhận cho được cái tình sâu xa và kín đáo mà nhà thơ kí thác. Đó mới là điều chủ yếu.
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã từng có nhiều bài viết trình bày nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau gây nhiều tranh luận trên báo chí. Điều đáng sợ nhất là cách tiếp cận bài thơ theo quan điểm xã hội học dung tục - lấy hiện thực khách quan (hoàn cảnh xã hội lúc bài thơ ra đời) để đối chiếu, suy diễn về cuộc sống, con nguời, nội dung của bài thơ. Còn nhớ bài viết của một nhà giáo trên báo Giáo dục và Thời đại cách đây khá lâu, tiêu biểu cho cách tiếp cận này. Theo tác giả bài viết đó, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ viết về cuộc sống, thân phận của một cô gái giang hồ trên sông Hương trước Cách mạng tháng Tám. Dòng Hương thơ mộng biến thành dòng sông ô trọc mà "khách đường xa" - một nhân vật trữ tình của bài thơ - biến thành khách làng chơi! Tất cả chỉ vì một cách tiếp cận văn chương rất sai lạc theo kiểu quy chiếu, giản lược ngôn ngữ thơ ca.
Có một cách tiếp cận khác tuy không hiểu sai tác phẩm nhưng vẫn là cách tiếp cận còn sơ lược, đơn giản - chỉ mới tiếp cận vẻ ngoài, bề nổi của bài thơ mà chưa đi sâu vào bên trong - cái hồn của bài thơ. Sách giáo viên (SGV) của Nhà xuất bản Giáo dục hướng dẫn giáo viên và học sinh phân tích theo định hướng: (bài thơ có 3 khổ)
- Khổ 1 và thôn Vĩ Dạ
- Khổ 2 và dòng sông Hương
- Khổ 3 và người xưa nơi thôn Vĩ hay cô gái Huế.
Tác giả bài viết trong sách trên xác nhận cách tiếp cận bài thơ "Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi bật trước hết là trong khổ thơ này (khổ 3) cũng như toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế"*.
Tôi tin rằng nếu chỉ vẽ lên được hình ảnh dù rất thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế thì bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không thể sống rất lâu và rất sâu trong lòng người đọc bao thế hệ từ lúc bài thơ ra đời đến nay... Phải có cái gì đó đủ sức hấp dẫn, quyến rũ làm đắm say lòng người. Phải chăng đó chính là chất thơ lãng mạn thi vị, lung linh, hư ảo quyện lẫn vào hồn thơ da diết, mãnh liệt, đau đớn, xót xa mà trong trẻo lạ thường! Phải từ góc độ tâm trạng để tiếp cận bài thơ thì mới hiểu hết giá trị của tác phẩm.
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên về cảnh sắc và con người xứ Huế. Nhưng đằng sau bức tranh ấy là cái nhìn, ánh mắt, cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bởi thơ ca là tiếng nói trữ tình. Với thơ, tình là gốc, ngôn ngữ là lá cành. Lục Cơ (Trung Quốc) xưa từng nói: "Thi duyên tình nhi ỷ mĩ". (Thơ là để biểu đạt tình cảm nên phải đẹp đẽ, tinh tế).
Cho nên phải cảm nhận cho được tâm trạng của nhà thơ kí thác, giãi bày, cảm nhận cái hồn thơ da diết, phải tiếp nhận bài thơ từ góc độ nhân văn, lấy tiếng lòng người đọc đồng cảm với tiếng lòng nhà thơ. Đó mới chính là cách tiếp cận nghệ thuật. Cái mông lung, mơ hồ, hư ảo bàng bạc khắp toàn bài là chất thơ của Đây thôn Vĩ Dạ. Chất thơ ấy có mặt không chỉ trong cảnh mà thấm sâu trong tình - trong từng cảm xúc yêu mến, đau đớn, xót xa mơ hồ mà mãnh liệt. Bài thơ là một hoài niệm thiết tha về cảnh cũ, người xưa. Kí ức sống dậy mãnh liệt trong tâm tưởng nhà thơ cho dù khoảng cách thời gian, không gian cũng không làm nhạt nhòa.
Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất thể hiện một niềm yêu mến thiết tha về cảnh và người xứ Huế qua những rung động, cảm xúc trong sáng, hồn nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với cảnh vật, con người thôn Vĩ là cái nhìn trìu mến, thán phục: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Dưới cái nhìn, ánh mắt trìu mến, chan chứa yêu thương ấy, cảnh vật hiện ra rất đỗi trữ tình, thi vị. Cảnh sinh động và vui tươi bởi tâm hồn nhà thơ đang đầy cảm xúc yêu đời:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Màu xanh của hàng cau, của khu vườn soi mình trong ánh hồng của nắng mới lúc hừng đông. Một vẻ đẹp mềm mại, tươi sáng, lung linh. Vẻ đẹp của cây lá trong khu vườn xưa - khu vườn hoài niệm không chỉ là màu xanh của thế giới tự nhiên, khách quan của cây lá ban mai còn ướt đẫm sương đêm - long lanh, lấp lánh dưới nắng trời mà là một màu xanh tắm mình trong cảm xúc của nhân vật trữ tình, trong tâm trạng yêu thương thiết tha: "Vườn ai mướt qua xanh như ngọc". Ở đây không chỉ đơn thuần là tài dùng từ, phép so sánh của nhà thơ mà chính là tâm trạng yêu đời của chủ thể trữ tình - một tâm hồn tràn đầy cảm xúc sôi nổi. Chính từ cái gốc tình ấy mới có cái nhìn trìu mến để tái hiện vẻ đẹp thi vị, đáng yêu của cảnh vật, con người trong khu vườn hoài niệm. Cảnh vật thơ mộng mà con người lại càng thơ mộng đáng yêu hơn:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Khuôn mặt người xưa - khuôn mặt chữ điền hồn hậu - trong tâm tưởng nhà thơ ẩn hiện thấp thoáng đằng sau lá trúc mềm mại, mỏng manh càng tăng vẻ quyến rũ, gọi mời. Chao ơi! hình ảnh người xưa hiện ra trong vẻ đẹp đến nao lòng! Nếu như khuôn mặt ấy hiện rõ dưới nắng trời - không còn ẩn hiện thấp thoáng đằng sau lá trúc - thì vẻ đẹp của người xưa sẽ mất đi một phần thơ mộng, đáng yêu, câu thơ sẽ mất đi một phần chất thơ quyến rũ. Ở đây xin mở ngoặc nhắc lại cách tiếp cận rất sai lạc về chi tiết này mà một số người đã hiểu lầm. Họ cho rằng mặt chữ điền trong câu thơ trên là chữ điền ( ) đắp nổi trên cái bình phong. Theo họ, Vĩ Dạ ngày trước là nơi ở của các quan lại triều Nguyễn nên khu vườn nào cũng có cái bình phong ở mặt trước ngôi nhà trên con đường từ cổng đi vào. Đó chính là cách tiếp cận lệch lạc - luôn luôn lấy hiện thực khách quan để liên hệ, đối chiếu với hiện thực của bài thơ tìm ra điểm tương đồng! Cả khổ thơ, bài thơ ánh lên vẻ đẹp trữ tình, mềm mại, lung linh đầy chất thơ của đường nét, sắc màu thế mà họ lại đâm ngang một mảng đen thô bạo "cái bình phong chữ điền". Còn gì là thơ! (đóng ngoặc).
Khổ thứ hai chuyển một cách đột ngột từ cảnh sắc vui tươi, sinh động đến cảnh sắc có phần tĩnh lặng và đượm buồn:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Gió - mây, sông - nước, thuyền - trăng - vẫn là những hình ảnh trữ tình, thi vị càng thi vị, trữ tình lung linh, huyền ảo hơn. Cảnh chuyển là do tình đã chuyển. Tình chuyển từ tâm trạng vui tươi, yêu đời thiết tha sang tâm trạng buồn bã, đau xót. Sự chuyển biến đột ngột ở hai đối cực của tâm trạng ấy, cũng dễ hiểu thôi vì đó chính là tâm trạng của những người đang yêu: đang vui bất chợt lại buồn. Và càng buồn càng xót xa, lo ngại:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.

Thuyền - bến, trăng - nước là những hình ảnh biểu tượng cho tình yêu nam nữ, những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao, dân ca trong cảm thức của người Việt. Hai dòng thơ là câu thơ âm vang trong tâm tưởng, trong sâu thẳm cõi lòng của chủ thể trữ tình, đó chính là nỗi băn khoăn lo ngại như dự cảm có điều gì ngăn cách, chia lìa trên đường đến với tình yêu, trên lối về hạnh ngộ: "Thuyền ai" "có chở"... "về kịp", bao câu hỏi vang lên mang nặng nỗi niềm! Xuất phát từ tâm trạng lo âu, cái nhìn của nhân vật trữ tình chiếu lên cảnh vật chỉ còn thấy sự ngang trái, chia lìa: "Gió theo lối gió, mây đường mây". Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Nhịp điệu dàn trải, chậm đều. Âm hưởng, giọng thơ trầm lắng thể hiện tâm trạng buồn bã, day dứt của nhà thơ:
Nếu khổ thơ thứ hai chỉ mới thể hiện nỗi băn khoăn, lo ngại, day dứt, còn dự cảm mơ hồ về một điều bất trắc, trở ngại sắp xảy ra thì ở khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình cảm nhận một nỗi đau xót, ý thức một điều trớ trêu giữa mơ ước và hiện thực:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Đối tượng mơ ước thì xa vời: "mơ khách đường xa". Chỉ là khách thôi, mà lại là khách đường xa. Cái ngăn cách không chỉ là trong quan hệ tình cảm (khách) mà còn là ngăn cách trong không gian (đường xa). Câu thơ lặp lại đến hai lần âm hưởng "khách đường xa" như tiếng lòng thốt lên xót xa, đau đớn. Và thực tế cuộc đời là: "Áo em trắng quá nhìn không ra", "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". "Áo em", "nhân ảnh" giờ chỉ còn là những hình bóng mơ hồ, những biểu tượng của tình yêu trong sáng đang bị tan biến, xóa nhòa trong thực tế cuộc đời: "trắng quá nhìn không ra", "sương khói mờ nhân ảnh". Chính sự đối lập giữa mơ tưởng và thực tế cuộc đời đã làm cho lời thơ dù không một chữ buồn, chữ đau nhưng giữa những khoảng cách của lời là một nỗi buồn đau da diết.
Ai biết tình ai có đậm đà
Câu thơ cuối cùng âm vang một nỗi ngậm ngùi, xót xa không dứt để lại dư ba trong lòng người đọc. Ai hỏi ai giữa đời này? Không, chỉ có tiếng lòng nhà thơ vang vọng hướng về một đối tượng cũng xa xôi, mơ hồ như "sương khói mờ nhân ảnh". Từ "ai", là một phiếm đại từ "chỉ đối tượng vừa mơ hồ vừa cụ thể, "ai biết tình ai" như một nốt nhạc lòng cứ ngân rung còn vương mãi một nỗi ngậm ngùi!
Bài thơ là tiếng lòng của thi nhân chứa đựng một nỗi niềm riêng tư từ một cảnh đời cụ thể: một tình yêu đơn phương, vô vọng. Nhưng tiếng lòng ấy sẽ bắt gặp tiếng lòng những ai trong cuộc đời còn khát khao yêu thương. Đồng thanh tương ứng. Vì thế "Đây thôn Vĩ Dạ" không chỉ là bài thơ của một người, một thời mà là thơ của mọi người, muôn đời!
T.T.S.H

(nguồn: TCSH số 158 - 04 - 2002)

 


------------------------------
* Văn học 11 (SGK), NXB Giáo dục

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!