Một cách tiếp cận bài thơ " Đây thôn Vĩ Dạ"

16:31 18/08/2008
THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

Nhưng vấn đề là, dù tiếp cận từ góc độ nào cũng không thể phá vỡ chất thơ, hiểu và cảm sai ý thơ, tình thơ mà cần phải cảm nhận cho được hồn thơ toát lên từ câu chữ và vần điệu. Bởi đọc thơ là đi tìm tiếng nói đồng cảm. Mỗi bài thơ là một tiếng lòng mà nhà thơ muốn giãi bày, thổ lộ, kí thác mà sâu xa là mong ước được gặp tiếng lòng tri âm, tri kỉ. Tình trong thơ là tình riêng của một người nhưng cũng chính là tình chung của bao người. Chính cái tính chất vừa cụ thể vừa có sức khái quát rộng lớn ấy là đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Vì vậy, đọc bài thơ phải cảm nhận cho được cái tình sâu xa và kín đáo mà nhà thơ kí thác. Đó mới là điều chủ yếu.
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã từng có nhiều bài viết trình bày nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau gây nhiều tranh luận trên báo chí. Điều đáng sợ nhất là cách tiếp cận bài thơ theo quan điểm xã hội học dung tục - lấy hiện thực khách quan (hoàn cảnh xã hội lúc bài thơ ra đời) để đối chiếu, suy diễn về cuộc sống, con nguời, nội dung của bài thơ. Còn nhớ bài viết của một nhà giáo trên báo Giáo dục và Thời đại cách đây khá lâu, tiêu biểu cho cách tiếp cận này. Theo tác giả bài viết đó, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ viết về cuộc sống, thân phận của một cô gái giang hồ trên sông Hương trước Cách mạng tháng Tám. Dòng Hương thơ mộng biến thành dòng sông ô trọc mà "khách đường xa" - một nhân vật trữ tình của bài thơ - biến thành khách làng chơi! Tất cả chỉ vì một cách tiếp cận văn chương rất sai lạc theo kiểu quy chiếu, giản lược ngôn ngữ thơ ca.
Có một cách tiếp cận khác tuy không hiểu sai tác phẩm nhưng vẫn là cách tiếp cận còn sơ lược, đơn giản - chỉ mới tiếp cận vẻ ngoài, bề nổi của bài thơ mà chưa đi sâu vào bên trong - cái hồn của bài thơ. Sách giáo viên (SGV) của Nhà xuất bản Giáo dục hướng dẫn giáo viên và học sinh phân tích theo định hướng: (bài thơ có 3 khổ)
- Khổ 1 và thôn Vĩ Dạ
- Khổ 2 và dòng sông Hương
- Khổ 3 và người xưa nơi thôn Vĩ hay cô gái Huế.
Tác giả bài viết trong sách trên xác nhận cách tiếp cận bài thơ "Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi bật trước hết là trong khổ thơ này (khổ 3) cũng như toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế"*.
Tôi tin rằng nếu chỉ vẽ lên được hình ảnh dù rất thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế thì bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không thể sống rất lâu và rất sâu trong lòng người đọc bao thế hệ từ lúc bài thơ ra đời đến nay... Phải có cái gì đó đủ sức hấp dẫn, quyến rũ làm đắm say lòng người. Phải chăng đó chính là chất thơ lãng mạn thi vị, lung linh, hư ảo quyện lẫn vào hồn thơ da diết, mãnh liệt, đau đớn, xót xa mà trong trẻo lạ thường! Phải từ góc độ tâm trạng để tiếp cận bài thơ thì mới hiểu hết giá trị của tác phẩm.
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên về cảnh sắc và con người xứ Huế. Nhưng đằng sau bức tranh ấy là cái nhìn, ánh mắt, cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bởi thơ ca là tiếng nói trữ tình. Với thơ, tình là gốc, ngôn ngữ là lá cành. Lục Cơ (Trung Quốc) xưa từng nói: "Thi duyên tình nhi ỷ mĩ". (Thơ là để biểu đạt tình cảm nên phải đẹp đẽ, tinh tế).
Cho nên phải cảm nhận cho được tâm trạng của nhà thơ kí thác, giãi bày, cảm nhận cái hồn thơ da diết, phải tiếp nhận bài thơ từ góc độ nhân văn, lấy tiếng lòng người đọc đồng cảm với tiếng lòng nhà thơ. Đó mới chính là cách tiếp cận nghệ thuật. Cái mông lung, mơ hồ, hư ảo bàng bạc khắp toàn bài là chất thơ của Đây thôn Vĩ Dạ. Chất thơ ấy có mặt không chỉ trong cảnh mà thấm sâu trong tình - trong từng cảm xúc yêu mến, đau đớn, xót xa mơ hồ mà mãnh liệt. Bài thơ là một hoài niệm thiết tha về cảnh cũ, người xưa. Kí ức sống dậy mãnh liệt trong tâm tưởng nhà thơ cho dù khoảng cách thời gian, không gian cũng không làm nhạt nhòa.
Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất thể hiện một niềm yêu mến thiết tha về cảnh và người xứ Huế qua những rung động, cảm xúc trong sáng, hồn nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với cảnh vật, con người thôn Vĩ là cái nhìn trìu mến, thán phục: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Dưới cái nhìn, ánh mắt trìu mến, chan chứa yêu thương ấy, cảnh vật hiện ra rất đỗi trữ tình, thi vị. Cảnh sinh động và vui tươi bởi tâm hồn nhà thơ đang đầy cảm xúc yêu đời:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Màu xanh của hàng cau, của khu vườn soi mình trong ánh hồng của nắng mới lúc hừng đông. Một vẻ đẹp mềm mại, tươi sáng, lung linh. Vẻ đẹp của cây lá trong khu vườn xưa - khu vườn hoài niệm không chỉ là màu xanh của thế giới tự nhiên, khách quan của cây lá ban mai còn ướt đẫm sương đêm - long lanh, lấp lánh dưới nắng trời mà là một màu xanh tắm mình trong cảm xúc của nhân vật trữ tình, trong tâm trạng yêu thương thiết tha: "Vườn ai mướt qua xanh như ngọc". Ở đây không chỉ đơn thuần là tài dùng từ, phép so sánh của nhà thơ mà chính là tâm trạng yêu đời của chủ thể trữ tình - một tâm hồn tràn đầy cảm xúc sôi nổi. Chính từ cái gốc tình ấy mới có cái nhìn trìu mến để tái hiện vẻ đẹp thi vị, đáng yêu của cảnh vật, con người trong khu vườn hoài niệm. Cảnh vật thơ mộng mà con người lại càng thơ mộng đáng yêu hơn:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Khuôn mặt người xưa - khuôn mặt chữ điền hồn hậu - trong tâm tưởng nhà thơ ẩn hiện thấp thoáng đằng sau lá trúc mềm mại, mỏng manh càng tăng vẻ quyến rũ, gọi mời. Chao ơi! hình ảnh người xưa hiện ra trong vẻ đẹp đến nao lòng! Nếu như khuôn mặt ấy hiện rõ dưới nắng trời - không còn ẩn hiện thấp thoáng đằng sau lá trúc - thì vẻ đẹp của người xưa sẽ mất đi một phần thơ mộng, đáng yêu, câu thơ sẽ mất đi một phần chất thơ quyến rũ. Ở đây xin mở ngoặc nhắc lại cách tiếp cận rất sai lạc về chi tiết này mà một số người đã hiểu lầm. Họ cho rằng mặt chữ điền trong câu thơ trên là chữ điền ( ) đắp nổi trên cái bình phong. Theo họ, Vĩ Dạ ngày trước là nơi ở của các quan lại triều Nguyễn nên khu vườn nào cũng có cái bình phong ở mặt trước ngôi nhà trên con đường từ cổng đi vào. Đó chính là cách tiếp cận lệch lạc - luôn luôn lấy hiện thực khách quan để liên hệ, đối chiếu với hiện thực của bài thơ tìm ra điểm tương đồng! Cả khổ thơ, bài thơ ánh lên vẻ đẹp trữ tình, mềm mại, lung linh đầy chất thơ của đường nét, sắc màu thế mà họ lại đâm ngang một mảng đen thô bạo "cái bình phong chữ điền". Còn gì là thơ! (đóng ngoặc).
Khổ thứ hai chuyển một cách đột ngột từ cảnh sắc vui tươi, sinh động đến cảnh sắc có phần tĩnh lặng và đượm buồn:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Gió - mây, sông - nước, thuyền - trăng - vẫn là những hình ảnh trữ tình, thi vị càng thi vị, trữ tình lung linh, huyền ảo hơn. Cảnh chuyển là do tình đã chuyển. Tình chuyển từ tâm trạng vui tươi, yêu đời thiết tha sang tâm trạng buồn bã, đau xót. Sự chuyển biến đột ngột ở hai đối cực của tâm trạng ấy, cũng dễ hiểu thôi vì đó chính là tâm trạng của những người đang yêu: đang vui bất chợt lại buồn. Và càng buồn càng xót xa, lo ngại:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.

Thuyền - bến, trăng - nước là những hình ảnh biểu tượng cho tình yêu nam nữ, những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao, dân ca trong cảm thức của người Việt. Hai dòng thơ là câu thơ âm vang trong tâm tưởng, trong sâu thẳm cõi lòng của chủ thể trữ tình, đó chính là nỗi băn khoăn lo ngại như dự cảm có điều gì ngăn cách, chia lìa trên đường đến với tình yêu, trên lối về hạnh ngộ: "Thuyền ai" "có chở"... "về kịp", bao câu hỏi vang lên mang nặng nỗi niềm! Xuất phát từ tâm trạng lo âu, cái nhìn của nhân vật trữ tình chiếu lên cảnh vật chỉ còn thấy sự ngang trái, chia lìa: "Gió theo lối gió, mây đường mây". Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Nhịp điệu dàn trải, chậm đều. Âm hưởng, giọng thơ trầm lắng thể hiện tâm trạng buồn bã, day dứt của nhà thơ:
Nếu khổ thơ thứ hai chỉ mới thể hiện nỗi băn khoăn, lo ngại, day dứt, còn dự cảm mơ hồ về một điều bất trắc, trở ngại sắp xảy ra thì ở khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình cảm nhận một nỗi đau xót, ý thức một điều trớ trêu giữa mơ ước và hiện thực:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Đối tượng mơ ước thì xa vời: "mơ khách đường xa". Chỉ là khách thôi, mà lại là khách đường xa. Cái ngăn cách không chỉ là trong quan hệ tình cảm (khách) mà còn là ngăn cách trong không gian (đường xa). Câu thơ lặp lại đến hai lần âm hưởng "khách đường xa" như tiếng lòng thốt lên xót xa, đau đớn. Và thực tế cuộc đời là: "Áo em trắng quá nhìn không ra", "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". "Áo em", "nhân ảnh" giờ chỉ còn là những hình bóng mơ hồ, những biểu tượng của tình yêu trong sáng đang bị tan biến, xóa nhòa trong thực tế cuộc đời: "trắng quá nhìn không ra", "sương khói mờ nhân ảnh". Chính sự đối lập giữa mơ tưởng và thực tế cuộc đời đã làm cho lời thơ dù không một chữ buồn, chữ đau nhưng giữa những khoảng cách của lời là một nỗi buồn đau da diết.
Ai biết tình ai có đậm đà
Câu thơ cuối cùng âm vang một nỗi ngậm ngùi, xót xa không dứt để lại dư ba trong lòng người đọc. Ai hỏi ai giữa đời này? Không, chỉ có tiếng lòng nhà thơ vang vọng hướng về một đối tượng cũng xa xôi, mơ hồ như "sương khói mờ nhân ảnh". Từ "ai", là một phiếm đại từ "chỉ đối tượng vừa mơ hồ vừa cụ thể, "ai biết tình ai" như một nốt nhạc lòng cứ ngân rung còn vương mãi một nỗi ngậm ngùi!
Bài thơ là tiếng lòng của thi nhân chứa đựng một nỗi niềm riêng tư từ một cảnh đời cụ thể: một tình yêu đơn phương, vô vọng. Nhưng tiếng lòng ấy sẽ bắt gặp tiếng lòng những ai trong cuộc đời còn khát khao yêu thương. Đồng thanh tương ứng. Vì thế "Đây thôn Vĩ Dạ" không chỉ là bài thơ của một người, một thời mà là thơ của mọi người, muôn đời!
T.T.S.H

(nguồn: TCSH số 158 - 04 - 2002)

 


------------------------------
* Văn học 11 (SGK), NXB Giáo dục

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...