Một cách tiếp cận bài thơ " Đây thôn Vĩ Dạ"

16:31 18/08/2008
THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

Nhưng vấn đề là, dù tiếp cận từ góc độ nào cũng không thể phá vỡ chất thơ, hiểu và cảm sai ý thơ, tình thơ mà cần phải cảm nhận cho được hồn thơ toát lên từ câu chữ và vần điệu. Bởi đọc thơ là đi tìm tiếng nói đồng cảm. Mỗi bài thơ là một tiếng lòng mà nhà thơ muốn giãi bày, thổ lộ, kí thác mà sâu xa là mong ước được gặp tiếng lòng tri âm, tri kỉ. Tình trong thơ là tình riêng của một người nhưng cũng chính là tình chung của bao người. Chính cái tính chất vừa cụ thể vừa có sức khái quát rộng lớn ấy là đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng. Vì vậy, đọc bài thơ phải cảm nhận cho được cái tình sâu xa và kín đáo mà nhà thơ kí thác. Đó mới là điều chủ yếu.
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã từng có nhiều bài viết trình bày nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau gây nhiều tranh luận trên báo chí. Điều đáng sợ nhất là cách tiếp cận bài thơ theo quan điểm xã hội học dung tục - lấy hiện thực khách quan (hoàn cảnh xã hội lúc bài thơ ra đời) để đối chiếu, suy diễn về cuộc sống, con nguời, nội dung của bài thơ. Còn nhớ bài viết của một nhà giáo trên báo Giáo dục và Thời đại cách đây khá lâu, tiêu biểu cho cách tiếp cận này. Theo tác giả bài viết đó, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ viết về cuộc sống, thân phận của một cô gái giang hồ trên sông Hương trước Cách mạng tháng Tám. Dòng Hương thơ mộng biến thành dòng sông ô trọc mà "khách đường xa" - một nhân vật trữ tình của bài thơ - biến thành khách làng chơi! Tất cả chỉ vì một cách tiếp cận văn chương rất sai lạc theo kiểu quy chiếu, giản lược ngôn ngữ thơ ca.
Có một cách tiếp cận khác tuy không hiểu sai tác phẩm nhưng vẫn là cách tiếp cận còn sơ lược, đơn giản - chỉ mới tiếp cận vẻ ngoài, bề nổi của bài thơ mà chưa đi sâu vào bên trong - cái hồn của bài thơ. Sách giáo viên (SGV) của Nhà xuất bản Giáo dục hướng dẫn giáo viên và học sinh phân tích theo định hướng: (bài thơ có 3 khổ)
- Khổ 1 và thôn Vĩ Dạ
- Khổ 2 và dòng sông Hương
- Khổ 3 và người xưa nơi thôn Vĩ hay cô gái Huế.
Tác giả bài viết trong sách trên xác nhận cách tiếp cận bài thơ "Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi bật trước hết là trong khổ thơ này (khổ 3) cũng như toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế"*.
Tôi tin rằng nếu chỉ vẽ lên được hình ảnh dù rất thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế thì bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không thể sống rất lâu và rất sâu trong lòng người đọc bao thế hệ từ lúc bài thơ ra đời đến nay... Phải có cái gì đó đủ sức hấp dẫn, quyến rũ làm đắm say lòng người. Phải chăng đó chính là chất thơ lãng mạn thi vị, lung linh, hư ảo quyện lẫn vào hồn thơ da diết, mãnh liệt, đau đớn, xót xa mà trong trẻo lạ thường! Phải từ góc độ tâm trạng để tiếp cận bài thơ thì mới hiểu hết giá trị của tác phẩm.
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên về cảnh sắc và con người xứ Huế. Nhưng đằng sau bức tranh ấy là cái nhìn, ánh mắt, cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bởi thơ ca là tiếng nói trữ tình. Với thơ, tình là gốc, ngôn ngữ là lá cành. Lục Cơ (Trung Quốc) xưa từng nói: "Thi duyên tình nhi ỷ mĩ". (Thơ là để biểu đạt tình cảm nên phải đẹp đẽ, tinh tế).
Cho nên phải cảm nhận cho được tâm trạng của nhà thơ kí thác, giãi bày, cảm nhận cái hồn thơ da diết, phải tiếp nhận bài thơ từ góc độ nhân văn, lấy tiếng lòng người đọc đồng cảm với tiếng lòng nhà thơ. Đó mới chính là cách tiếp cận nghệ thuật. Cái mông lung, mơ hồ, hư ảo bàng bạc khắp toàn bài là chất thơ của Đây thôn Vĩ Dạ. Chất thơ ấy có mặt không chỉ trong cảnh mà thấm sâu trong tình - trong từng cảm xúc yêu mến, đau đớn, xót xa mơ hồ mà mãnh liệt. Bài thơ là một hoài niệm thiết tha về cảnh cũ, người xưa. Kí ức sống dậy mãnh liệt trong tâm tưởng nhà thơ cho dù khoảng cách thời gian, không gian cũng không làm nhạt nhòa.
Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất thể hiện một niềm yêu mến thiết tha về cảnh và người xứ Huế qua những rung động, cảm xúc trong sáng, hồn nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với cảnh vật, con người thôn Vĩ là cái nhìn trìu mến, thán phục: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Dưới cái nhìn, ánh mắt trìu mến, chan chứa yêu thương ấy, cảnh vật hiện ra rất đỗi trữ tình, thi vị. Cảnh sinh động và vui tươi bởi tâm hồn nhà thơ đang đầy cảm xúc yêu đời:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Màu xanh của hàng cau, của khu vườn soi mình trong ánh hồng của nắng mới lúc hừng đông. Một vẻ đẹp mềm mại, tươi sáng, lung linh. Vẻ đẹp của cây lá trong khu vườn xưa - khu vườn hoài niệm không chỉ là màu xanh của thế giới tự nhiên, khách quan của cây lá ban mai còn ướt đẫm sương đêm - long lanh, lấp lánh dưới nắng trời mà là một màu xanh tắm mình trong cảm xúc của nhân vật trữ tình, trong tâm trạng yêu thương thiết tha: "Vườn ai mướt qua xanh như ngọc". Ở đây không chỉ đơn thuần là tài dùng từ, phép so sánh của nhà thơ mà chính là tâm trạng yêu đời của chủ thể trữ tình - một tâm hồn tràn đầy cảm xúc sôi nổi. Chính từ cái gốc tình ấy mới có cái nhìn trìu mến để tái hiện vẻ đẹp thi vị, đáng yêu của cảnh vật, con người trong khu vườn hoài niệm. Cảnh vật thơ mộng mà con người lại càng thơ mộng đáng yêu hơn:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Khuôn mặt người xưa - khuôn mặt chữ điền hồn hậu - trong tâm tưởng nhà thơ ẩn hiện thấp thoáng đằng sau lá trúc mềm mại, mỏng manh càng tăng vẻ quyến rũ, gọi mời. Chao ơi! hình ảnh người xưa hiện ra trong vẻ đẹp đến nao lòng! Nếu như khuôn mặt ấy hiện rõ dưới nắng trời - không còn ẩn hiện thấp thoáng đằng sau lá trúc - thì vẻ đẹp của người xưa sẽ mất đi một phần thơ mộng, đáng yêu, câu thơ sẽ mất đi một phần chất thơ quyến rũ. Ở đây xin mở ngoặc nhắc lại cách tiếp cận rất sai lạc về chi tiết này mà một số người đã hiểu lầm. Họ cho rằng mặt chữ điền trong câu thơ trên là chữ điền ( ) đắp nổi trên cái bình phong. Theo họ, Vĩ Dạ ngày trước là nơi ở của các quan lại triều Nguyễn nên khu vườn nào cũng có cái bình phong ở mặt trước ngôi nhà trên con đường từ cổng đi vào. Đó chính là cách tiếp cận lệch lạc - luôn luôn lấy hiện thực khách quan để liên hệ, đối chiếu với hiện thực của bài thơ tìm ra điểm tương đồng! Cả khổ thơ, bài thơ ánh lên vẻ đẹp trữ tình, mềm mại, lung linh đầy chất thơ của đường nét, sắc màu thế mà họ lại đâm ngang một mảng đen thô bạo "cái bình phong chữ điền". Còn gì là thơ! (đóng ngoặc).
Khổ thứ hai chuyển một cách đột ngột từ cảnh sắc vui tươi, sinh động đến cảnh sắc có phần tĩnh lặng và đượm buồn:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Gió - mây, sông - nước, thuyền - trăng - vẫn là những hình ảnh trữ tình, thi vị càng thi vị, trữ tình lung linh, huyền ảo hơn. Cảnh chuyển là do tình đã chuyển. Tình chuyển từ tâm trạng vui tươi, yêu đời thiết tha sang tâm trạng buồn bã, đau xót. Sự chuyển biến đột ngột ở hai đối cực của tâm trạng ấy, cũng dễ hiểu thôi vì đó chính là tâm trạng của những người đang yêu: đang vui bất chợt lại buồn. Và càng buồn càng xót xa, lo ngại:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.

Thuyền - bến, trăng - nước là những hình ảnh biểu tượng cho tình yêu nam nữ, những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao, dân ca trong cảm thức của người Việt. Hai dòng thơ là câu thơ âm vang trong tâm tưởng, trong sâu thẳm cõi lòng của chủ thể trữ tình, đó chính là nỗi băn khoăn lo ngại như dự cảm có điều gì ngăn cách, chia lìa trên đường đến với tình yêu, trên lối về hạnh ngộ: "Thuyền ai" "có chở"... "về kịp", bao câu hỏi vang lên mang nặng nỗi niềm! Xuất phát từ tâm trạng lo âu, cái nhìn của nhân vật trữ tình chiếu lên cảnh vật chỉ còn thấy sự ngang trái, chia lìa: "Gió theo lối gió, mây đường mây". Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay". Nhịp điệu dàn trải, chậm đều. Âm hưởng, giọng thơ trầm lắng thể hiện tâm trạng buồn bã, day dứt của nhà thơ:
Nếu khổ thơ thứ hai chỉ mới thể hiện nỗi băn khoăn, lo ngại, day dứt, còn dự cảm mơ hồ về một điều bất trắc, trở ngại sắp xảy ra thì ở khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình cảm nhận một nỗi đau xót, ý thức một điều trớ trêu giữa mơ ước và hiện thực:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Đối tượng mơ ước thì xa vời: "mơ khách đường xa". Chỉ là khách thôi, mà lại là khách đường xa. Cái ngăn cách không chỉ là trong quan hệ tình cảm (khách) mà còn là ngăn cách trong không gian (đường xa). Câu thơ lặp lại đến hai lần âm hưởng "khách đường xa" như tiếng lòng thốt lên xót xa, đau đớn. Và thực tế cuộc đời là: "Áo em trắng quá nhìn không ra", "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh". "Áo em", "nhân ảnh" giờ chỉ còn là những hình bóng mơ hồ, những biểu tượng của tình yêu trong sáng đang bị tan biến, xóa nhòa trong thực tế cuộc đời: "trắng quá nhìn không ra", "sương khói mờ nhân ảnh". Chính sự đối lập giữa mơ tưởng và thực tế cuộc đời đã làm cho lời thơ dù không một chữ buồn, chữ đau nhưng giữa những khoảng cách của lời là một nỗi buồn đau da diết.
Ai biết tình ai có đậm đà
Câu thơ cuối cùng âm vang một nỗi ngậm ngùi, xót xa không dứt để lại dư ba trong lòng người đọc. Ai hỏi ai giữa đời này? Không, chỉ có tiếng lòng nhà thơ vang vọng hướng về một đối tượng cũng xa xôi, mơ hồ như "sương khói mờ nhân ảnh". Từ "ai", là một phiếm đại từ "chỉ đối tượng vừa mơ hồ vừa cụ thể, "ai biết tình ai" như một nốt nhạc lòng cứ ngân rung còn vương mãi một nỗi ngậm ngùi!
Bài thơ là tiếng lòng của thi nhân chứa đựng một nỗi niềm riêng tư từ một cảnh đời cụ thể: một tình yêu đơn phương, vô vọng. Nhưng tiếng lòng ấy sẽ bắt gặp tiếng lòng những ai trong cuộc đời còn khát khao yêu thương. Đồng thanh tương ứng. Vì thế "Đây thôn Vĩ Dạ" không chỉ là bài thơ của một người, một thời mà là thơ của mọi người, muôn đời!
T.T.S.H

(nguồn: TCSH số 158 - 04 - 2002)

 


------------------------------
* Văn học 11 (SGK), NXB Giáo dục

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.