Mấy trang nhật ký của John Crawfurd về kinh thành Huế

15:38 19/08/2010
L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.

Kinh thành Huế - Ảnh: internet

Sáng hôm qua, người ta báo cho chúng tôi biết là sẽ gởi đến một chiếc thuyền được sửa soạn tử tế để đưa chúng tôi đi thăm bất cứ khu vực nào của Minh Mạng mà chúng tôi muốn và sẽ có cả các quan viên người Pháp đi theo nữa. Thật vậy, vào lúc 3 giờ, các ông Chaigneau và Vannier đến gặp chúng tôi và nói rằng hai ông thừa lệnh nhà vua đến hướng dẫn chúng tôi đi thăm Kinh thành và trình bày các công tác kiến trúc cho chúng tôi biết. Chúng tôi đi ngược dòng sông (sông Hương) và ghé vào ở bờ phía Tây Kinh thành nơi đây đã có một vị quan Nam Hà (Cochinchine) đang đợi để đón tiếp chúng tôi.

Kinh thành có hình tứ giác nầy bị cô lập hoàn toàn do một con kênh (Hồ thành hà) rộng từ 27m,42 đến 30m,56, mỗi mặt đo được 2.299m,82. Chính vị vua vừa qua đời (Gia Long) đã tự tay ông vẽ họa đồ dựa theo lời chỉ dẫn của các viên sĩ quan Pháp cộng tác với ông; nhưng khi khởi sự các công tác kiến trúc Kinh thành vào năm 1805 thì ông không còn có sự giúp đỡ của họ nữa (như Oliver de Puynanel, Mgr d’Adran). Con người đáng chú ý ấy cho chúng ta thấy rằng ông không tầm thường trong lãnh vực quân sự của người Âu vì công cuộc xây cất, như chúng tôi thấy, đều được hoạch định và thực hiện theo những nguyên tắc của kỹ thuật xây thành trì, và vật liệu kiến trúc cũng như công trình xây dựng đều không thua sút hơn họa đồ tí nào cả. Kinh thành có một thành giai (Glacis) đều đặn và đẹp đẽ trải ra từ bờ sông hoặc từ bờ kênh cho đến hào; có một con đường ngầm (chemin couvert) chạy bao bọc kinh thành và một cái hào bao quanh rộng 27m42, nước sâu từ 1m299 đến 1m624. Thành đắp bằng đất được nện chặt và xây gạch ở hai mặt trong ngoài. Mỗi góc thành có bốn pháo đài phòng vệ, mỗi pháo đài thiết trí 36 khẩu đại bác, một số đặt ở pháo nhãn, một số đặt ở nền cao. Mỗi mặt thành có bốn cửa (tác giả nhầm, ba mặt hậu, tả, hữu, mỗi mặt thành chỉ có hai cửa mà thôi) như hình một cái vòm được xây chắc chắn. Trước mỗi cửa đều có một chiếc cầu xinh xắn xây bằng đá bắc ngang qua hào. Trong thành nội, có nhiều đường đá đều đặn và rộng rãi chạy thẳng góc với nhau. Một con kênh nhỏ hẹp và xinh xắn nối liền con sông với kinh thành và khi vào trong thành thì con kênh đó rẽ ra thành nhiều nhánh khác nhau để dẫn đến Hoàng cung, xưởng đúc súng, các vựa lúa, và những cơ sở khác. Nhờ con kênh này mà thuế má và phẩm vật của các tỉnh chở tới có thể đến ngay ở cửa Hoàng Cung và các kho tàng. Hoàng Cung tọa lạc bên trong kinh thành và được hai lớp thành khác bao bọc.


Chúng tôi không được mời vào bên trong Hoàng thành, nhưng đứng bên ngoài nhìn vào cũng có thể thấy được các mái màu vàng của Hoàng cung và một ngôi điện xinh xắn để thờ các tiên vương. Ngôi điện nầy không có tăng ni tư tế gì ở, đó là nơi thờ phụng độc nhất ở bên trong Kinh thành.

Trên khắp diện tích của Kinh thành rộng lớn này, thật khó mà kiếm ra được những khiếm khuyết thô sơ lạc hậu. Có lẽ chỉ có những mái cong làm theo kiểu Tàu mang hình dạng những chiếc dù che trên các cửa thành và những pháo nhãn của một vài pháo đài vừa mới được xây cất xong dưới triều vua Minh Mạng là có sự biểu lộ nghèo nàn của nghệ thuật kiến trúc mà chính nhà vua cũng đã muốn áp dụng nguyên tắc khoa học hợp lý khi ông buộc phải sửa lại các pháo nhãn xiên vào bên trong thay vì trở ra phía ngoài.

Bờ sông và bờ kênh tạo nên đáy thành giai không những chỉ nghiêng đều theo một chiều dốc nhè nhẹ giống nhau ở khắp nơi mà những nơi nào công tác đã hoàn thành - vì có những chỗ chưa xây cất xong - thì bờ sông hoặc bờ kênh đó được chặt bằng một lớp hồ chắc chắn phủ lên trên.

Con kênh ở thành nội cũng được xây một cách hoàn toàn khéo léo và các chiếc cầu bắc ngang qua kênh không những chỉ có lan can xinh đẹp xây bằng đá, mà khắp mặt cầu con được lát cẩm thạch đem từ Bắc kỳ vào.

Vật ở trong Kinh thành hấp dẫn tính tò mò của chúng tôi nhất là những kho lương. Những kho nầy sắp thành những hàng dài ngun ngút gồm các tòa nhà được xây cất rất thứ tự và chứa đầy lúa mà người ta nói rằng có thể nuôi sống cả Kinh thành trong nhiều năm. Vua trước cũng như vua nầy đều có thói quen tạo thêm mỗi năm hai hoặc ba dãy vựa lúa như vậy.

Một tục xấu là tích trữ thật nhiều lúa má vào kho để dành cho những năm đói kém, nhưng chính nó lại đem đến hậu quả là làm gia tăng hoặc gây ra nạn đói. Tục đó được triều đình duy trì mãi như một phương châm không bỏ được. Tục ấy chỉ lợi ích ở chỗ bảo vệ được quyền thế của một triều đình chuyên chế. Các trại lính là những địa điểm ở gần chúng tôi nhất. Ở đây chúng tôi có thể thấy được binh sĩ ra vào. Các trại lính nầy được xây cất rất hoàn hảo, về phương diện bố trí và vệ sinh không kém gì của quân đội được tổ chức hoàn bị nhất bên Âu châu. Các trại lính trải rộng ra và vây bọc khắp phần bên ngoài của Kinh thành. Người ta nói với chúng tôi rằng có từ 12 đến 13 ngàn lính thường trực ở Thủ đô.

Súng thần công trong Thành nội - Ảnh: hueoi.com


Một quang cảnh kỳ lạ nữa mà chúng tôi thấy được là xưởng đúc súng. Một trận mưa rào và đêm tối sẽ phải đến làm cho chúng tôi không thể quan sát hết tất cả cơ sở nầy; nhưng những gì chúng tôi thấy được cũng đã quá đủ để làm cho chúng tôi kinh ngạc và thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Những khẩu đại bác bằng sắt được trình bày cho chúng tôi thấy trước tiên gồm một tổng hợp lạ kỳ của những đại bác trên chiến hạm của nhiều quốc gia khác nhau bên châu Âu như Pháp, Anh, Hòa Lan, Bồ Đào Nha. Như vậy cũng chưa kỳ dị cho bằng các khẩu súng đồng, những quả đạn tròn và đạn trái phá hoàn toàn do thợ bản xứ chế tạo tại Nam Hà bằng vật liệu chở từ Bắc kỳ vào và làm theo khuôn mẫu Pháp. Ngành pháo binh gồm có súng đại bác, súng bắn trái phá và súng cối. Giá súng thì được làm xong rồi sơn vẽ rất hoàn hảo, chứng tỏ rằng đã chế tạo tại Woolwich hoặc Fort-Milliam. Giá súng của những khẩu dã chiến cũng có vẽ rất đẹp. Những súng đại bác nầy có các khẩu kính khác nhau từ 4 đến 68 livres mà một khẩu kính 18 livres thì đã được xem là lớn rồi. Trong số những đại bác đó, có 9 khẩu súng đồng nổi bật đúc dưới triều Gia Long, mỗi khẩu có thể phóng đi một quả đạn tròn nặng đến 72 “etties” Tàu, tương đương với 93 livres. Những khẩu thần công nầy được chạm rất đẹp, đúc rất kỹ, và đặt trên những giá súng điêu khắc công phu. Trên những khẩu đại pháo nầy, khắc tên vua Gia Long cùng ngày và năm chế tạo. Nhà vua thường nói rằng các khẩu súng đó sẽ là những kỷ vật tồn tại lâu đời nhất của thời đại ông. Đó không phải là một lời nói quá đáng đối với nạn cai trị của vị vua ấy. Nghệ thuật đúc đại bác bằng đồng dưới sự hướng dẫn của người Âu hẳn đã du nhập vào xứ nầy lâu lắm rồi, vì có một số lớn súng đúc rất tốt khẩu kính chừng 9 livres được chế tạo vào những năm 1664 và 1665. Trên các súng đó có khắc chữ Bồ Đào Nha cho biết đã đúc tại Nam Hà hoặc tại Cao Mên mà mang những thời hiệu khả nghi cùng với tên người đúc. Dù rất kém giá trị nếu đem so với những khẩu vừa mới đúc dưới sự hướng dẫn của người Pháp, nhưng, các khẩu đại bác xưa cũ đó cũng đã có những mẫu mực rất đẹp. Những trái đạn đại bác và được bố trí theo phương pháp của người Âu; các giá súng hoàn toàn được sơn màu, tóm lại, xưởng đúc súng nầy được tổ chức trật tự và hoàn hảo nhất.

Vị chỉ huy trưởng ngành pháo binh được lệnh hướng dẫn chúng tôi đi thăm tất cả khu vực và xem chừng ông mong đợi chúng tôi nhiều lắm. Đó là một trong những chiến binh kỳ cựu của vua Gia Long; một ông già đáng kính, diện mạo phương phi và mặc nhung phục lộng lẫy. Ngoài chức vụ chỉ huy nầy còn là vị quản lý của Hoàng cung nữa, và trong chức vụ, cuối cùng nầy, ông phải cáng đáng một số công việc không thích hợp tí nào với võ nghiệp của ông cả. Chẳng hạn, ông phải thanh tra các nhà bếp trong Hoàng cung, và thống kê tất cả những thai phụ và những vụ sinh nở ở hậu cung, đề phòng cẩn thận để loại trừ những trường hợp sinh sản bất hợp pháp trong chốn trang nghiêm nầy.

Tất cả những khẩu đại bác trong Kinh thành không những được đặt lên trên các pháo sàng để cho giá súng khỏi bị ẩm thấp, mà còn được đặt vào trong kho cho khỏi bị mưa gió bất thường nữa. Không có khẩu nào được đem đến đặt ở các công trình xây cất cả, chỉ trừ một số ít được thiết trí trên thượng thành. Người ta nói với chúng tôi rằng số súng đại bác đó rất cần thiết cho 16 pháo đài, tất cả lên đến con số 576 khẩu và để trang bị đầy đủ cho các công trình kiến trúc, cũng phải cần đến chừng 800 khẩu. Tôi không biết đích xác số súng chứa trong kho là bao nhiêu, nhưng hẳn là nhiều hơn con số đó.

Kho thuốc súng được xây cất một cách khôn khéo cũng như các công trình còn lại; kho này có một bức thành bao bọc lại được một cái hào sâu và rộng vây quanh. Gần đó, có một cái sân để lính diễn tập.

Không cần nói, ai cũng biết là đối với bất cứ địch thủ Á châu nào, thành trì này cũng coi như là khó mà chiếm hữu được, tuy nhiên, lỗi lầm lớn nhất của nó là rộng mênh mông. Tôi muốn nói rằng, để phòng thủ thành trì nầy, cần phải có ít nhất là 50.000 binh sĩ. Một lực lượng như thế có thể dùng một cách hữu hiệu để làm mệt mỏi một địch thủ Á châu (hẳn phải là một địch thủ nào đáng sợ) bằng những chiến thuật tập kích và bất thường hầu có thể tạo nên may mắn độc nhất được song còn khi một địch thủ Á châu phải đương đầu với một quân đội có tổ chức quy cũ. Dù những cuộc tập kích đều đặn, hoặc áp dụng lối pháo kích, một lực lượng Âu châu thế nào cũng làm chủ được toàn thể thành trì ấy. Biến cố nầy làm cho họ chiếm hữu được kho tàng, các vựa thóc cũng như kho súng của Hoàng gia, và khi tiêu diệt xong lực lượng quân đội chính yếu cùng cắt đứt tất cả các nguồn tiếp trợ của triều đình thì hẳn nhiên là họ chiếm đoạt được vương quốc nầy ngay tức khắc.

Mãi đến 8 giờ tối, chúng tôi mới trở về tới nơi cư ngụ, cả người ướt đẫm và mệt lữ, nhưng được đền bù lại là đã có dịp trông thấy những quang cảnh mới lạ và thích thú.

P.T.A. dịch
(4/12-83)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.