Mấy trang nhật ký của John Crawfurd về kinh thành Huế

15:38 19/08/2010
L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.

Kinh thành Huế - Ảnh: internet

Sáng hôm qua, người ta báo cho chúng tôi biết là sẽ gởi đến một chiếc thuyền được sửa soạn tử tế để đưa chúng tôi đi thăm bất cứ khu vực nào của Minh Mạng mà chúng tôi muốn và sẽ có cả các quan viên người Pháp đi theo nữa. Thật vậy, vào lúc 3 giờ, các ông Chaigneau và Vannier đến gặp chúng tôi và nói rằng hai ông thừa lệnh nhà vua đến hướng dẫn chúng tôi đi thăm Kinh thành và trình bày các công tác kiến trúc cho chúng tôi biết. Chúng tôi đi ngược dòng sông (sông Hương) và ghé vào ở bờ phía Tây Kinh thành nơi đây đã có một vị quan Nam Hà (Cochinchine) đang đợi để đón tiếp chúng tôi.

Kinh thành có hình tứ giác nầy bị cô lập hoàn toàn do một con kênh (Hồ thành hà) rộng từ 27m,42 đến 30m,56, mỗi mặt đo được 2.299m,82. Chính vị vua vừa qua đời (Gia Long) đã tự tay ông vẽ họa đồ dựa theo lời chỉ dẫn của các viên sĩ quan Pháp cộng tác với ông; nhưng khi khởi sự các công tác kiến trúc Kinh thành vào năm 1805 thì ông không còn có sự giúp đỡ của họ nữa (như Oliver de Puynanel, Mgr d’Adran). Con người đáng chú ý ấy cho chúng ta thấy rằng ông không tầm thường trong lãnh vực quân sự của người Âu vì công cuộc xây cất, như chúng tôi thấy, đều được hoạch định và thực hiện theo những nguyên tắc của kỹ thuật xây thành trì, và vật liệu kiến trúc cũng như công trình xây dựng đều không thua sút hơn họa đồ tí nào cả. Kinh thành có một thành giai (Glacis) đều đặn và đẹp đẽ trải ra từ bờ sông hoặc từ bờ kênh cho đến hào; có một con đường ngầm (chemin couvert) chạy bao bọc kinh thành và một cái hào bao quanh rộng 27m42, nước sâu từ 1m299 đến 1m624. Thành đắp bằng đất được nện chặt và xây gạch ở hai mặt trong ngoài. Mỗi góc thành có bốn pháo đài phòng vệ, mỗi pháo đài thiết trí 36 khẩu đại bác, một số đặt ở pháo nhãn, một số đặt ở nền cao. Mỗi mặt thành có bốn cửa (tác giả nhầm, ba mặt hậu, tả, hữu, mỗi mặt thành chỉ có hai cửa mà thôi) như hình một cái vòm được xây chắc chắn. Trước mỗi cửa đều có một chiếc cầu xinh xắn xây bằng đá bắc ngang qua hào. Trong thành nội, có nhiều đường đá đều đặn và rộng rãi chạy thẳng góc với nhau. Một con kênh nhỏ hẹp và xinh xắn nối liền con sông với kinh thành và khi vào trong thành thì con kênh đó rẽ ra thành nhiều nhánh khác nhau để dẫn đến Hoàng cung, xưởng đúc súng, các vựa lúa, và những cơ sở khác. Nhờ con kênh này mà thuế má và phẩm vật của các tỉnh chở tới có thể đến ngay ở cửa Hoàng Cung và các kho tàng. Hoàng Cung tọa lạc bên trong kinh thành và được hai lớp thành khác bao bọc.


Chúng tôi không được mời vào bên trong Hoàng thành, nhưng đứng bên ngoài nhìn vào cũng có thể thấy được các mái màu vàng của Hoàng cung và một ngôi điện xinh xắn để thờ các tiên vương. Ngôi điện nầy không có tăng ni tư tế gì ở, đó là nơi thờ phụng độc nhất ở bên trong Kinh thành.

Trên khắp diện tích của Kinh thành rộng lớn này, thật khó mà kiếm ra được những khiếm khuyết thô sơ lạc hậu. Có lẽ chỉ có những mái cong làm theo kiểu Tàu mang hình dạng những chiếc dù che trên các cửa thành và những pháo nhãn của một vài pháo đài vừa mới được xây cất xong dưới triều vua Minh Mạng là có sự biểu lộ nghèo nàn của nghệ thuật kiến trúc mà chính nhà vua cũng đã muốn áp dụng nguyên tắc khoa học hợp lý khi ông buộc phải sửa lại các pháo nhãn xiên vào bên trong thay vì trở ra phía ngoài.

Bờ sông và bờ kênh tạo nên đáy thành giai không những chỉ nghiêng đều theo một chiều dốc nhè nhẹ giống nhau ở khắp nơi mà những nơi nào công tác đã hoàn thành - vì có những chỗ chưa xây cất xong - thì bờ sông hoặc bờ kênh đó được chặt bằng một lớp hồ chắc chắn phủ lên trên.

Con kênh ở thành nội cũng được xây một cách hoàn toàn khéo léo và các chiếc cầu bắc ngang qua kênh không những chỉ có lan can xinh đẹp xây bằng đá, mà khắp mặt cầu con được lát cẩm thạch đem từ Bắc kỳ vào.

Vật ở trong Kinh thành hấp dẫn tính tò mò của chúng tôi nhất là những kho lương. Những kho nầy sắp thành những hàng dài ngun ngút gồm các tòa nhà được xây cất rất thứ tự và chứa đầy lúa mà người ta nói rằng có thể nuôi sống cả Kinh thành trong nhiều năm. Vua trước cũng như vua nầy đều có thói quen tạo thêm mỗi năm hai hoặc ba dãy vựa lúa như vậy.

Một tục xấu là tích trữ thật nhiều lúa má vào kho để dành cho những năm đói kém, nhưng chính nó lại đem đến hậu quả là làm gia tăng hoặc gây ra nạn đói. Tục đó được triều đình duy trì mãi như một phương châm không bỏ được. Tục ấy chỉ lợi ích ở chỗ bảo vệ được quyền thế của một triều đình chuyên chế. Các trại lính là những địa điểm ở gần chúng tôi nhất. Ở đây chúng tôi có thể thấy được binh sĩ ra vào. Các trại lính nầy được xây cất rất hoàn hảo, về phương diện bố trí và vệ sinh không kém gì của quân đội được tổ chức hoàn bị nhất bên Âu châu. Các trại lính trải rộng ra và vây bọc khắp phần bên ngoài của Kinh thành. Người ta nói với chúng tôi rằng có từ 12 đến 13 ngàn lính thường trực ở Thủ đô.

Súng thần công trong Thành nội - Ảnh: hueoi.com


Một quang cảnh kỳ lạ nữa mà chúng tôi thấy được là xưởng đúc súng. Một trận mưa rào và đêm tối sẽ phải đến làm cho chúng tôi không thể quan sát hết tất cả cơ sở nầy; nhưng những gì chúng tôi thấy được cũng đã quá đủ để làm cho chúng tôi kinh ngạc và thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình. Những khẩu đại bác bằng sắt được trình bày cho chúng tôi thấy trước tiên gồm một tổng hợp lạ kỳ của những đại bác trên chiến hạm của nhiều quốc gia khác nhau bên châu Âu như Pháp, Anh, Hòa Lan, Bồ Đào Nha. Như vậy cũng chưa kỳ dị cho bằng các khẩu súng đồng, những quả đạn tròn và đạn trái phá hoàn toàn do thợ bản xứ chế tạo tại Nam Hà bằng vật liệu chở từ Bắc kỳ vào và làm theo khuôn mẫu Pháp. Ngành pháo binh gồm có súng đại bác, súng bắn trái phá và súng cối. Giá súng thì được làm xong rồi sơn vẽ rất hoàn hảo, chứng tỏ rằng đã chế tạo tại Woolwich hoặc Fort-Milliam. Giá súng của những khẩu dã chiến cũng có vẽ rất đẹp. Những súng đại bác nầy có các khẩu kính khác nhau từ 4 đến 68 livres mà một khẩu kính 18 livres thì đã được xem là lớn rồi. Trong số những đại bác đó, có 9 khẩu súng đồng nổi bật đúc dưới triều Gia Long, mỗi khẩu có thể phóng đi một quả đạn tròn nặng đến 72 “etties” Tàu, tương đương với 93 livres. Những khẩu thần công nầy được chạm rất đẹp, đúc rất kỹ, và đặt trên những giá súng điêu khắc công phu. Trên những khẩu đại pháo nầy, khắc tên vua Gia Long cùng ngày và năm chế tạo. Nhà vua thường nói rằng các khẩu súng đó sẽ là những kỷ vật tồn tại lâu đời nhất của thời đại ông. Đó không phải là một lời nói quá đáng đối với nạn cai trị của vị vua ấy. Nghệ thuật đúc đại bác bằng đồng dưới sự hướng dẫn của người Âu hẳn đã du nhập vào xứ nầy lâu lắm rồi, vì có một số lớn súng đúc rất tốt khẩu kính chừng 9 livres được chế tạo vào những năm 1664 và 1665. Trên các súng đó có khắc chữ Bồ Đào Nha cho biết đã đúc tại Nam Hà hoặc tại Cao Mên mà mang những thời hiệu khả nghi cùng với tên người đúc. Dù rất kém giá trị nếu đem so với những khẩu vừa mới đúc dưới sự hướng dẫn của người Pháp, nhưng, các khẩu đại bác xưa cũ đó cũng đã có những mẫu mực rất đẹp. Những trái đạn đại bác và được bố trí theo phương pháp của người Âu; các giá súng hoàn toàn được sơn màu, tóm lại, xưởng đúc súng nầy được tổ chức trật tự và hoàn hảo nhất.

Vị chỉ huy trưởng ngành pháo binh được lệnh hướng dẫn chúng tôi đi thăm tất cả khu vực và xem chừng ông mong đợi chúng tôi nhiều lắm. Đó là một trong những chiến binh kỳ cựu của vua Gia Long; một ông già đáng kính, diện mạo phương phi và mặc nhung phục lộng lẫy. Ngoài chức vụ chỉ huy nầy còn là vị quản lý của Hoàng cung nữa, và trong chức vụ, cuối cùng nầy, ông phải cáng đáng một số công việc không thích hợp tí nào với võ nghiệp của ông cả. Chẳng hạn, ông phải thanh tra các nhà bếp trong Hoàng cung, và thống kê tất cả những thai phụ và những vụ sinh nở ở hậu cung, đề phòng cẩn thận để loại trừ những trường hợp sinh sản bất hợp pháp trong chốn trang nghiêm nầy.

Tất cả những khẩu đại bác trong Kinh thành không những được đặt lên trên các pháo sàng để cho giá súng khỏi bị ẩm thấp, mà còn được đặt vào trong kho cho khỏi bị mưa gió bất thường nữa. Không có khẩu nào được đem đến đặt ở các công trình xây cất cả, chỉ trừ một số ít được thiết trí trên thượng thành. Người ta nói với chúng tôi rằng số súng đại bác đó rất cần thiết cho 16 pháo đài, tất cả lên đến con số 576 khẩu và để trang bị đầy đủ cho các công trình kiến trúc, cũng phải cần đến chừng 800 khẩu. Tôi không biết đích xác số súng chứa trong kho là bao nhiêu, nhưng hẳn là nhiều hơn con số đó.

Kho thuốc súng được xây cất một cách khôn khéo cũng như các công trình còn lại; kho này có một bức thành bao bọc lại được một cái hào sâu và rộng vây quanh. Gần đó, có một cái sân để lính diễn tập.

Không cần nói, ai cũng biết là đối với bất cứ địch thủ Á châu nào, thành trì này cũng coi như là khó mà chiếm hữu được, tuy nhiên, lỗi lầm lớn nhất của nó là rộng mênh mông. Tôi muốn nói rằng, để phòng thủ thành trì nầy, cần phải có ít nhất là 50.000 binh sĩ. Một lực lượng như thế có thể dùng một cách hữu hiệu để làm mệt mỏi một địch thủ Á châu (hẳn phải là một địch thủ nào đáng sợ) bằng những chiến thuật tập kích và bất thường hầu có thể tạo nên may mắn độc nhất được song còn khi một địch thủ Á châu phải đương đầu với một quân đội có tổ chức quy cũ. Dù những cuộc tập kích đều đặn, hoặc áp dụng lối pháo kích, một lực lượng Âu châu thế nào cũng làm chủ được toàn thể thành trì ấy. Biến cố nầy làm cho họ chiếm hữu được kho tàng, các vựa thóc cũng như kho súng của Hoàng gia, và khi tiêu diệt xong lực lượng quân đội chính yếu cùng cắt đứt tất cả các nguồn tiếp trợ của triều đình thì hẳn nhiên là họ chiếm đoạt được vương quốc nầy ngay tức khắc.

Mãi đến 8 giờ tối, chúng tôi mới trở về tới nơi cư ngụ, cả người ướt đẫm và mệt lữ, nhưng được đền bù lại là đã có dịp trông thấy những quang cảnh mới lạ và thích thú.

P.T.A. dịch
(4/12-83)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Ở thời điểm năm 1987, GS Trần Quốc Vượng là người đầu tiên nêu quan điểm cần đổi mới tư duy lịch sử, nhận thức đúng sự thật lịch sử và thảo luận tự do, dân chủ, rộng rãi, trong đó có vấn đề xem xét lại nhà Nguyễn và thời Nguyễn.

  • ĐỖ XUÂN CẨM 

    Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.

  • KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

    LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

  • KIMO 

    Café trên xứ Huế bây giờ không thua gì café quán cốc ở Pháp, những quán café mọc lên đầy hai bên lề đường và khi vươn vai thức dậy nhìn xuống đường là mùi thơm của café cũng đủ làm cho con người tỉnh táo.

  • LTS: Diễn ra từ 10/6 đến 22/6/2015, cuộc triển lãm “Thừa Thiên Huế: 90 năm báo chí yêu nước và cách mạng” do Hội Nhà báo tổ chức tại Huế, trưng bày các tư liệu báo chí hết sức quý giá do nhà báo, nhà nghiên cứu Dương Phước Thu sưu tập, đã thu hút đông đảo công chúng Huế. Nhiều tờ báo xuất bản cách đây hơn thế kỷ giờ đây công chúng được nhìn thấy để từ đó, hình dung về một thời kỳ Huế đã từng là trung tâm báo chí của cả nước. Nhân sự kiện hết sức đặc biệt này, Sông Hương đã có cuộc phỏng vấn ngắn với nhà nghiên cứu Dương Phước Thu.

  • MAI KHẮC ỨNG  

    Một lần lên chùa Thiên Mụ gặp đoàn khách có người dẫn, tôi nhập lại để nghe thuyết minh. Nền cũ đình Hương Nguyện trước tháp Phước Duyên được chọn làm diễn đài.

  • LÊ QUANG THÁI

    Việt Nam giữ một vị thế trọng yếu ở ngã tư giao lưu với các nước của bán đảo Ấn Hoa và miền Viễn Đông châu Á.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                            Tùy bút

    Mối cảm giao với Túy Vân khởi sự từ sự tạo sinh của đất trời trong lớp lớp mây trắng chảy tràn, tuyết tô cho ngọn núi mệnh danh thắng cảnh thiền kinh Cố đô.

  • PHẠM THÁI ANH THƯ

    Trong giai đoạn 2004 - 2013, nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế (TTH) đạt mức tăng trưởng khá cao so với mức bình quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch hợp lý theo hướng du lịch, dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đồng hành với mức tăng trưởng đó, nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đã đến đầu tư tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Một số nhà nghiên cứu đã chú tâm tìm kiếm nơi an táng đại thi hào Nguyễn Du ở Huế, sau khi ông qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (16/9/1820).

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN 

    Sông Hương vừa là cột mốc làm chứng vừa là biểu tượng cho dáng đẹp sương khói, “áo lụa thinh không” của lịch sử thăng trầm về hình bóng Huế.

  • ĐỖ XUÂN CẨM

    1. Đôi điều tản mạn về Liễu
    Người Á Đông thường coi trọng luật phong thủy, ngũ hành âm dương, họ luôn chú trọng đến thiên nhiên, cảnh vật và xem đó là một phần của cuộc sống tinh thần.

  • TRƯỜNG PHƯỚC  

    Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.

  • LƯU THỦY
     
    KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ (26/3/1975 - 2015)

  • LÊ VĂN LÂN

    Một mùa xuân mới lại về trên quê hương “Huế luôn luôn mới” để lại trong tâm hồn người dân Huế luôn trăn trở với bao khát vọng vươn lên, trả lời câu hỏi phải tiếp tục làm gì để Huế là một thành phố sáng tạo, một đô thị đáng sống. Gạt ra ngoài những danh hiệu, kể cả việc Huế chưa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vấn đề đặt ra đâu là cái lõi cái bất biến của Huế và chúng ta phải làm gì để cái lõi đó tỏa sáng.

  • THANH TÙNG

    Ở Việt Nam, Huế là thành phố có tỉ lệ tượng lớn nhất trên diện tích tự nhiên và dân số. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn đạt đỉnh cao về chất lượng nghệ thuật, phong phú về đề tài, loại hình, phong cách thể hiện.

  • ĐỖ MINH ĐIỀN

    Chùa Hoàng giác là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng nhất xứ Đàng Trong, được đích thân chúa Nguyễn Phúc Chu cho tái thiết, ban sắc tứ vào năm 1721. Tuy nhiên, vì trải qua binh lửa chiến tranh chùa đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Dựa trên nguồn sử liệu và kết quả điều tra thực tế, chúng tôi cố gắng để phác thảo phần nào nguồn gốc ra đời cũng như tầm quan trọng của ngôi chùa này trong đời sống văn hóa cư dân Huế xưa với một nếp sống mang đậm dấu ấn Phật giáo.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cách đây đúng 500 năm (1514 - 2014), tại ngôi làng ven sông Kiến Giang “nơi cây vườn và dòng nước cùng với các thôn xóm xung quanh hợp thành một vùng biếc thẳm giữa màu xanh mênh mông của cánh đồng hai huyện”(1) thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, cậu bé Dương Văn An, sau này đỗ Tiến sĩ và làm quan đến chức Thượng thư được sinh ra đời.

  • DƯƠNG ĐÌNH CHÂU – TRẦN HOÀNG CẨM LAI

    Danh lam thắng cảnh, nơi cảnh đẹp có chùa nổi tiếng, khái niệm này càng rõ hơn ở Huế.