Mẫu đơn

17:55 10/01/2014

NGUYỄN ĐỨC TÙNG
               Tùy bút

Một chiều thứ bảy cuối xuân lạnh gắt, đang mưa trời bỗng tạnh như sắp đổ tuyết, tôi một mình dọn nhà từ Hamilton về thị trấn phía nam, nơi tôi được nhận đi thực tập nội trú vài tháng.

Đó là vùng dân cư chỉ mấy chục ngàn, hầu hết người da trắng, theo đạo Mennonite, có một bệnh viện nhỏ, vài quán tạp hóa, hai trạm đổ xăng, một hai quán cà phê và giải khát, sau tám giờ tối các nhà đều đóng cửa không còn ai ra đường. Tôi chở đầy một xe pick up những vật dụng cá nhân, chăn mền, sách vở, quần áo, không quên mang theo một chậu hoa mẫu đơn lúc nào cũng giữ bên mình.

Tôi để chậu hoa ngoài cửa, phần vì mệt, phần chưa biết làm gì, để đâu. Cái chậu lớn nặng, hoa ra nụ bằng đầu ngón tay chúm chím sắp nở trong vài ngày. Đó là giống hoa quý mà bạn tôi đi chơi ở Nhật mang về. Tôi vốn thích mẫu đơn, nhất là các giống mẫu đơn Trung Quốc, nhưng xem hình của loại hoa này do anh ấy chụp thì tôi mê quá. Lá nhỏ và dài, màu xanh nõn như lá chuối non. Hoa trắng hồng, chứ không đỏ tươi hay trắng hẳn, cánh kép, mỏng và mịn nhưng coi bộ chắc chắn, không lớn nhưng tụ lại, thân và cuống hoa cứng, gặp mưa gió ít rũ tàn. Bạn tôi xin củ đem về trồng, gầy được mấy gốc. Nhưng tôi quý bụi hoa này vì chuyện khác.

Rồi tôi ngủ thiếp đi. Thức dậy sáng hôm sau, chủ nhật, nhìn ra cửa sổ, ngạc nhiên, tuyết đã xuống mù trời. Một trận tuyết cuối cùng. Tôi đi pha cà phê và sửa soạn bày biện đồ đạc trong nhà, chợt nhớ đến chậu hoa ngoài cửa vội chạy ra để mang vào.

Chậu hoa mẫu đơn, như người ta nói, không cánh mà bay.

Một chàng trai người châu Âu lai Ấn Độ đã tặng gốc hoa cho tôi. Sadi bốn mươi tuổi nhưng còn độc thân, cao, gầy, mặt hơi xạm, có nhiều tàn nhang, móm nhưng có duyên, hay cười, vui tính.

Một lần anh đến thăm tôi lúc còn ở Hamilton, khệ nệ mang theo một túi ni lông lớn, chứa đất với bụi cây. Tôi ngạc nhiên vì đang ở tầng thứ bảy một cao ốc, gần bờ hồ, lại một mình, lấy ai chăm sóc hoa cảnh. Sadi theo đạo Tin lành nhưng cũng tập thiền, là một tay đua thuyền buồm giỏi, từng sailing nhiều lần trong các cuộc tranh tài ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới. Anh bảo: anh sắp sang Nhật dự một chuyến đi thuyền buồm lớn, kéo dài nhiều ngày, với bạn bè, vượt qua các đảo nhỏ, tiến ra khơi xa Thái Bình Dương. Truớc khi đi chuyến đi này anh muốn tặng tôi gốc mẫu đơn làm kỉ niệm.

Tôi hỏi anh những chuyến đi như thế có nguy hiểm gì không. Anh bảo cũng có người mất tích vì gặp bão bất ngờ trên biển; và nói thêm, anh có linh tính chuyến đi này là chuyến cuối cùng của anh. Tôi lạnh người, khuyên anh hủy bỏ chuyến bay. Anh lắc đầu cười, bảo rằng những người chơi thuyền buồm thỉnh thoảng có linh cảm như thế là thường; vả lại chết trên biển chưa chắc đã là sự kết thúc quá tệ hại của kiếp người. Anh vốn không phải là kẻ chán đời, khi nhắc đến tai nạn và cái chết của bạn bè cũng không lộ vẻ u sầu bi quan. Tôi hơi yên tâm.

Nhưng sau đó Sadi không về nữa. Suốt một thời gian tôi dò hỏi tin tức, nhờ cả người thân trong các giới thẩm quyền Canada tìm kiếm vẫn không nghe tăm tích. Tôi không biết điều gì xảy ra với anh. Từ đó đi đâu tôi cũng giữ theo bên mình chậu hoa của Sadi, bón phân, tưới nước, cẩn thận để ở ngoài chỗ có nắng hay ánh sáng. Mẫu đơn bề ngoài quý phái, mỏng mảnh nhưng bên trong dễ tính, bền bỉ; ưa lạnh nhưng không thích tối tăm, ẩm thấp.

Bây giờ nó biến mất. Tôi ngơ ngác nhìn quanh. Tôi đi vòng ra sau nhà, coi cửa trước cửa sau, lật hết các tấm bạt, xô các cánh cổng, mở thùng rác sau vườn, nín thở đưa hẳn cả đầu vào trong như một tay cảnh sát hình sự. Một nỗi giận trào lên làm tôi nghẹt thở, tức ở ngực, phía trước, lan ra sau lưng giữa hai bả vai, đau như trúng một lưỡi dao nhọn. Tôi trở ra đứng trên đường, chưa biết phải làm gì, quên cả mặc áo khoác. Gió thổi hun hút lùa tuyết bay đi, bắt đầu se chúng lại thành từng hòn bi nhỏ, hai tay tôi lạnh cóng. Mặt tôi lúc ấy chắc rất xấu xí nên mấy con chim sẻ ở đâu rụt rè tiến lại làm quen cũng hoảng hốt bay vụt đi.

Căn nhà thuê gồm có hai tầng, phía trên là chủ nhà, một người tôi mới quen nhưng lúc đó đi vắng, vả lại chẳng có lý nào họ lại đi ăn cắp của mình. Những nhà hai bên cửa đóng im ỉm, nhìn qua phong cảnh và cách bầy biện hầu hết là những người hàng xóm lớn tuổi về hưu, ngăn nắp. Ngoài đường không có rác hay các lon nước ngọt lăn lóc như ở thành phố lớn, không thấy bọn thanh niên lãng tử đi lại. Lạnh quá, tôi đành bước vào nhà, ngán ngẩm cho cái thị trấn nhỏ chưa chi đã chào đón mình một cách không mấy thân thiện, thú vị.

Tôi quyết định rút ngắn thời gian thực tập.

Rồi tôi nhớ ra một chuyện. Chính cô ta chứ còn ai vào đây nữa, kẻ đã làm tôi khổ sở mấy tháng qua, là lý do khiến tôi nhận lời đề nghị của một bệnh viện nhỏ rất xa, mặc dù tôi có thể chọn thành phố lớn hơn.

Nhưng tôi kịp nghĩ lại, không lẽ cô ta biết bay hay có phép thần thông biến hóa?

Hay là gã đàn ông đầu đường mà tôi thoáng thấy khi lái xe rẽ vào, đứng chờ xe buýt, mũ đen sùm sụp, bây giờ càng nghĩ càng thấy đáng nghi? Đang ngồi thẫn thờ với những mối hận và các bài học triết lý về lẽ đời sâu xa thì có tiếng gõ cửa. Tôi giật mình đứng lên, nhìn quanh tìm cái búa đóng đinh, cầm trên tay phải, dùng tay trái mở hé, giấu mình sau cánh cửa.

Một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi đứng nhìn tôi xưng tên, cười rất rộng miệng, hồn nhiên bắt chuyện. Thì ra anh ở nhà đối diện. Tên Federico, gốc Ý. Tôi không có hứng làm quen và đang định than phiền về chuyện hôm qua, bỗng nhác thấy phía sau lưng anh chậu hoa của tôi nằm đó, vẫn còn tươi tốt.

Người hàng xóm bảo rằng tối qua đã khuya, tuyết xuống nhiều và trời lạnh gấp, anh từ chỗ làm lái xe về nhà, ngang qua, biết là có người mới dọn vào, thấy cái chậu hoa để trước sân hờ hững sợ nó chết nên lẳng lặng mang về, để trong nhà mình cho đến sáng nay.

Tôi mừng rỡ cám ơn, bắt chuyện. Sau hôm đó chúng tôi dần dà trở thành bạn thân. Federico thích uống rượu vang, tự tay làm rượu từ các giàn nho chi chít quả trong vườn. Anh dạy tôi cách làm rượu, cách ủ cất lâu năm, cách nếm. Anh dẫn tôi xuống hầm rượu, chỉ cho tôi cách dùng bàn tay và các ngón tay gõ lên vỏ thùng bằng gỗ sồi để thăm rượu, kiểu như các bác sĩ gõ lên lưng người bệnh để khám bệnh vậy. Tôi vốn thích rượu vang trắng, bị anh chê là quê mùa, vì dân sành điệu không coi vang trắng là rượu vang. Tôi bị chọc quê, từ đó vào các hiệu ăn không dám gọi vang trắng nữa! Đến bây giờ mặc dù năm nào chúng tôi cũng tìm cách gặp nhau vài bận, tôi vẫn chưa bao giờ có ý định nói cho Federico nghe về những mối nghi ngờ, thù hận và những câu chửi thề khủng khiếp mà tôi đã sáng tạo ra dành riêng cho anh, mặc dù trong im lặng, trong mấy giờ đồng hồ của mình.

Tôi vẫn ngạc nhiên khi thỉnh thoảng nhớ lại chuyện cũ, nghĩ đến một người can đảm tới mức thấy chuyện nên làm là làm ngay, mặc dù nhỏ thôi, hình dung anh im lặng bước tới sát cửa nhà người khác lúc nửa đêm, nhấc cái chậu cây nặng lên tay, khuân về nhà mà không để ý là thể có người nhìn sau lưng anh qua khe cửa, ngờ anh là tên trộm bần tiện. Không, không phải sự can đảm, có lẽ tôi muốn nói đến sự chất phác. Hay là lòng tin cậy ở cuộc đời.

Vài năm sau, có nhà riêng, tôi trồng giống hoa của Sadi một góc vườn. Mẫu đơn thường nở sớm, chỉ sau một hai loài hoa khác. Những đêm trăng sáng tôi đứng bâng khuâng trên bãi cỏ đầy sương, hít thở mùi hương dịu ngọt của chúng thoảng bay trên một nền không gian vốn đã đầy vị oải hương, là thứ biết nén mình lại dưới cơn mưa, chờ tạnh là thơm dội lên, ngai ngái như vừa ngủ dậy; ngắm đi ngắm lại những bông hoa trắng hồng biến đổi khi như mặt người thiếu nữ khi như vầng trăng, mỗi năm sau mùa đông ẩn mình dưới đất tuyết lạnh, nhớ trần gian mà ngoi lên trở lại. Chúng vui tươi như tình hàng xóm, diễm lệ như tình bạn tuy quả thật có cũng lúc buồn phiền hờn giận, mưa gió phũ phàng, tưởng chết đi nhưng rồi vẫn mọc, tưởng đã tàn nhưng rồi lại thắm.

N.Đ.T
(SDB11/12-13)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VĂN DŨNG
                          
                        Bút ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                             Ký sự

    Trước Mậu Thân 1968, Thành đội Huế lập chiến khu ở giữa rừng phía đông tỉnh. Ban Chỉ huy Thành đội gồm Ban Tham mưu, Ban Chính trị, Ban Hậu cần.

  • NGUYỄN NGỌC PHÚ
                       Tùy bút

    Tôi tin rằng trong đời mỗi con người ai cũng qua quãng thời ấu thơ nghe tiếng ru của mẹ trong cánh võng “ầu ơ”; cứ thế mà lớn lên mà trưởng thành.

  • NGUYÊN QUÂN

    Đôi khi trong sự trầm lặng tĩnh mịch thường hằng, và những con người quen sống với sự tĩnh lặng ấy thường vô tình không nhận thấy những sự thay đổi chung quanh vì nó cũng âm thầm không xôn xao ầm ĩ.

  • HẢI HẠC PHAN
         Bút ký dự thi

    Con chim xanh tìm hạt dẻ sa cánh chợt khép mỏ vút bay khi nghe tiếng động cơ xe di chuyển về phía Tây dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                      Ký sự

    Tôi là phóng viên của báo Cờ Giải phóng - Thừa Thiên Huế. Sống ở trên chiến khu, đi viết, chúng tôi thường lên các bản vùng cao, đến các đơn vị quân đội đóng trong rừng, gặp các chiến sĩ từ vùng sâu lên,… chứ chưa đi vùng sâu lần nào. Dù biết vùng tranh chấp rất hấp dẫn, nhưng chưa có cơ hội.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                       

    Viết về bà mẹ anh hùng Nguyễn Thị Lớn, xã Thủy Dương (xã anh hùng) huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế.

  • HÀ LÊ
       Tản văn

    Cây gòn bên bến nước phía sông An Cựu đã bắt đầu bung nở những đám mây trắng đầu tiên. 

  • NGUYÊN QUÂN
            Bút ký dự thi

    Người đàn bà trung niên dừng lại giữa lưng chừng dốc rồi nói:
    - Đã tới nơi rồi chú.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

                Bút ký dự thi

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                        Ghi chép

    A Lưới là một huyện phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, có biên giới giáp nước bạn Lào.

  • LÊ HÀ

    Cây hoa gạo bên phía cầu Dã Viên sáng nay bỗng thắp lửa đỏ cả một khung trời. Cái màu đỏ chói lòa như ngọn đuốc rực cháy giữa một bầu trời xanh thẳm tháng ba còn vươn mùi ẩm lạnh.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                        Bút ký

    Đã hai năm nay tôi mới lại về thăm nhà máy sợi Huế. Cái đập vào mắt tôi trước tiên là bức tượng những bàn tay con gái rất đẹp, các ngón thon thả, tất cả đều giơ lên, nâng cao búp sợi trắng ngần. Bốn xung quanh là những vòi nước phun, rất mảnh, như những dòng sợi mỏng manh bay lên.


  • LÊ QUỐC HÁN

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

    Những khoảnh khắc mùa trôi đi trong dòng mưa ngút ngàn. Vùng này, mưa không ngớt mà nắng cũng chát chao. Khoảng khắc không nhớ bỗng dưng lại khiến người ta không thể nguôi ngoai về một điều đã cũ.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                        Bút ký

    Tưởng nhớ Phan Thế Phương và Nguyễn Như Tùng

  • LÊ QUỐC HÁN

    Mùa thu mùa của chia ly
    Nên con sông chảy chẳng khi nào ngừng

  • VIỆT HÙNG
            Ghi Chép

    Vào một đêm mùa thu của Hà Nội ông Nguyễn Ngọc Dũng, vụ trưởng thanh tra Bộ tài chính, trong một giấc mộng, ông thấy người anh ruột của mình hiện về.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ  
                   Bút ký  

    1.
    Bất giác, văng vẳng “con đường cái quan” Phạm Duy ca rằng:
    “Người về chưa ghé sông Hương
    Đã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay”

  • CHÂU PHÙ  

    Tôi về đây giữa mùa hạ khi cơn mưa rào rạt trên biển vắng, gieo hoang vu xuống chiều xa xăm. Từ trong lều quán nhìn ra biển, một màu xám giăng ngang trời.