Mario Vargas Llosa - Nobel văn học 2010: Paris, nơi tôi đã trở thành nhà văn

14:26 17/12/2010
TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

Nhà văn Mario Vargas Llosa - Ảnh: internet

Ngoài cuộc hôn nhân với “bà dì” hơn mình mười lăm tuổi, mà báo giới cho là vô đạo, vụ thất bại tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà kết cục là phải sang lánh nạn chính trị ở Tây Ban Nha, thì Paris - kinh đô nghệ thuật và trí tuệ đã đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của con người lừng danh này.


Paris - nơi nảy sinh những đam mê trong tôi

Mario Vargas Llosa khẳng định rằng, Paris chính là n
ơi ông đã trở thành nhà văn. Nơi mà ông đã tiếp thu tư tưởng triết học hiện sinh của Camus, Sartres, cũng như tinh thần tự do, nhân đạo của các nhà văn Pháp thế kỷ XIX. Cũng nơi đây, ông đã viết những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, đánh dấu phong cách của một tài năng nghệ thuật, đặc biệt là tác phẩm La ville et les chiens, 1963 (Thành phố và những con cho). M.V.Llosa đã phơi bày sự thật trước công luận thế giới về một xã hội - chính trị hà khắc, tàn tệ của Peru những năm 50-60. Ngay lập tức, tác phẩm được đoạt giải Biblioteca Breve và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếp theo đó là La Maison verte, 1966 (Ngôi nhà xanh), và đoạt ngay giải Rómulo Gallegos. Nói chung, danh tiếng văn chương của ông được biết đến, trước hết là ở Pháp, chứ không phải là Peru hay Tây Ban Nha. Từ những thập niên 70, ông đã trở thành nhà văn quen biết của độc giả Pháp.

Trả lời phóng viên báo chí, ông nói rằng: “Nếu như phải chọn một thành phố để sống, tôi sẽ chọn Luân Đôn. Nhưng Luân Đôn không phải là nơi nảy sinh trong tôi những đam mê sáng tạo, như tôi đã khám phá ở Paris. Bảy năm ở Paris đã có tính quyết định trong cuộc sống của tôi. Đấy là nơi tôi đã trở thành nhà văn, nơi tôi đã có những đam mê tình yêu… Quả thực, tôi không phóng đại, nếu như tôi nói rằng, tôi đã trải qua tất cả giấc mơ tuổi hoa niên ở Paris” (Lược dịch từ tiếng Pháp: Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống).(1)

M.V.Llosa sống và làm việc tại Paris trong khoảng thời gian từ năm 1959 đến 1966. Ông “vào vai” với tư cách là một phóng viên cho hãng thông tấn Pháp AFP, sau đó giảng dạy tiếng Tây Ban Nha ở các trường trung học. Đây chính là một thời kỳ diễn ra các cuộc tranh luận học thuật rất sôi động trên nhiều lĩnh vực như triết học, tôn giáo chính trị - xã hội; cũng là chốn “tụ tập” của các nhà tư tưởng châu Âu, đặc biệt là các chính trị gia đang lánh nạn chính trị. M.V.Llosa đã hẹn gặp các nhà trí thức nổi tiếng như Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simonne de Beauvoir… Với tư cách là một phóng viên, một nhà văn, ông đã có điều kiện tham dự các cuộc thảo luận thú vị và gay cấn về chính trị và nghệ thuật. Sống trong không khí sôi động của những năm tháng chuẩn bị cho cuộc bạo động tháng Năm - 1968 (một cuộc biểu tình lớn chưa từng có ở Paris, thay đổi căn bản các chính sách của nước Pháp); rõ ràng, M.V.Llosa có điều kiện để chiêm nghiệm các vấn đề của xã hội Peru. Phải chăng, tư tưởng chính trị phức tạp của ông được hình thành từ đây? Gạt bỏ những quan điểm cực đoan, Mario.V.Llosa, trên hết hướng đến tư tưởng tự do, tinh thần phản kháng quyết liệt của con người cá nhân.


Vì sao phải là V.Hugo?

Trước hết, đó là sự ảnh hưởng sâu sắc của V. Hugo. Trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên báo Le Point, với tựa đề Hugo, les femmes et moi (V.Hugo, những người đàn bà và tôi), M.V.Llosa đã cho biết những ảnh hưởng sâu sắc của Hugo đối với tư tưởng sáng tác của mình: “Tôi đã đọc Les Misérapbles khi tôi còn rất trẻ. Cuốn sách này đã gây cho tôi một sự xúc động cực điểm, đến mức, tôi không thể đọc lại nó trong những năm sau. Tôi đã có những ý tưởng tuyệt vời về cuốn tiểu thuyết này; và nó đã thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi đã đọc lại tác phẩm này vào những năm 70… Đó không chỉ là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu, mà còn là sự biện minh cho tinh thần nhân đạo của con người...”(2). Theo ông, V.Hugo được tôn thờ như một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, là bởi ít có nhà văn nào trên thế giới, lại đặt ra những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, nhất là nỗi đau và khát vọng của con người như trong tác phẩm của đại văn hào này. Không chỉ ảnh hưởng về tư tưởng sáng tác, M.V.Llosa còn dành riêng một công trình khảo cứu về V.Hugo dưới tựa đề: “Tentation de l’impossible” (tạm dịch Sự cám dỗ của điều kỳ dị(3). Cuốn sách là những nghiên cứu rất công phu của ông về V.Hugo qua tác phẩm Những người cùng khổ. M.V.Llosa đã làm sáng tỏ tư tưởng đạo đức, chính trị và tôn giáo của Hugo, dưới thời đại của đế chế Napoléon Bonaparte. Đặc biệt là vấn đề hiện thực và hư vô trong thế giới nghệ thuật của Hugo. Cuốn tiểu luận này được các nhà phê bình Pháp cho là một sự kiện văn học.

* V.Hugo và M.V.Llosa: những tuổi thơ không bình yên

Ngoài vấn đề văn chương, có lẽ Mario V.Llosa còn đồng cảm với V.Hugo trên hai phương diện: Tuổi ấu thơ không mấy bình yên và cuộc sống lưu vong. Anh em V.Hugo trải qua một tuổi thơ vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Cha mẹ ly hôn. Anh em Hugo phải sống với mẹ - một người phụ nữ theo khuynh hướng Bảo Hoàng, với tư tưởng vừa phóng túng vừa nghiêm cẩn. Còn người cha - một thiếu tá trong quân đội đã trở thành đối tượng của lòng yêu thương và căm hận trong cảm thức tuổi thơ của V.Hugo (thậm chí, ông từng chối từ sự trợ cấp của cha). M.V.Llosa còn tệ hơn. Ông bị cha bỏ rơi từ khi còn mấy tháng tuổi. Rời Arequipa - nơi vừa sinh ra (1936), đứa trẻ “ngơ ngác” cùng với mẹ đến trang trại miền Bolivia của ông bà ngoại. Năm 1946, M.V.Llosa buộc phải về thủ đô Lima sống với cha. Và tại đây, cậu bé Llosa bị người cha độc đoán đưa vào học tại Học viện quân sự Léoncio Prado, để “triệt tiêu” ý định theo đuổi nghiệp văn chương. Một nghề nghiệp, mà theo ông ta là phù phiếm. Người cha trong mắt của Llosa là một bộ mặt lạnh lùng, thô bạo và độc đoán. Chân dung người cha được chuyển hóa vào những hình tượng khác nhau qua chủ đề về chính trị -xã hội.

* V.Hugo và M.V.Llosa: sáng tạo nghệ thuật bằng cảm thức lưu vong

Thế hệ của Mario Vargas Llosa là một thế hệ mang cảm thức lưu vong. Và hình như các nhà văn Nobel gần đây đều vậy. Trước V.Llosa, Hugo cũng phải sống lưu vong. V.Hugo đã phản ứng lại chính sách độc tài của Napoléon III và bị lưu đày gần hai mươi năm ở các nước như Bỉ, Anh. Ông đã viết bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ trong những năm tháng sống lưu vong khốn khổ. Và nhờ người tình Juliette Drouet lưu giữ bản thảo, nếu không, có lẽ tác phẩm vĩ đại này đã không đến tay chúng ta ngày hôm nay. Tất nhiên,V.Hugo trở về Pháp trong niềm yêu mến đến mức tôn sùng của công chúng Paris. Bằng chứng là sinh nhật lần thứ 80, hàng ngàn người đổ xuống đại lộ D’Eylau để xưng tụng ông như một vị thánh. Mario Vargas Llosa thì bi đát hơn. Vụ tranh cử tổng thống 1990, khiến cho ông phải rời đất nước Peru - trước sự thù địch gay gắt với nhà chính trị độc tài Alberto Fujimo. Hầu hết, những tác phẩm của ông đều viết ở Pháp và Tây Ban Nha với một cảm thức của một người sống lưu vong như: La Maison verte - 1965, La Ville et les chiens - 1966, La tante Julia et le scribouillard - 1967, Conversation à la cathédrale - 1973, La Guerre de la fin du monde - 1980... Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà ông đã nhìn đất nước Peru ở những góc độ khác: sự thối nát, mục ruỗng, tàn tệ của bộ máy chính trị.


Với Flaubert và nàng Emma Bovary nổi loạn?

Theo Mario V.Llosa, Flaubert là bài học về sự khổ hạnh trong sáng tạo và sự nổi loạn về tình yêu tự do. Flaubert là một điển hình cho sự nỗ lực hết mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đó là bài học về tài năng và sự kiếm tìm bản thân thông qua những “khổ ải”. Ông nói rằng, những cố gắng trong lao động nghệ thuật của Flaubert là bài học để ông vượt lên chính mình. Ông tạo lập cho mình một nguyên tắc lao động khổ hạnh (thức dậy lúc 5h và viết cho đến 14h). Ông cũng đã có một tiểu luận về Flaubert, được xuất bản từ năm 1975, được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề Flaubert et Madame Bovary, 1978. Trong cuốn tiểu luận này, M.V.Llossa khẳng định, Flaubert chính là cha đẻ của Tiểu thuyết mới “le père du nouveau roman”(4). Flaubert đã phân hủy những yếu tố đông cứng của tiểu thuyết truyền thống như người kể chuyện, thời gian trần thuật, đặc biệt, đã kiến tạo nên những câu văn tuyệt vời, ẩn tàng tính đối thoại và độc thoại. Cũng chính vì vậy mà hình tượng Elma Bovary trở nên sinh động, nhiều chiều.

Phải chăng, sự nổi loạn của nàng Elma là hình ảnh gần gũi đối với người vợ đầu tiên của ông - mối tình say mê kỳ lạ mà ông đã chịu bao nhiêu búa rìu dư luận luận cũng như sự cấm đoán từ phía gia đình? Trong cuốn tiểu thuyết có tính tự truyện: La tante Julia et le scribouillard - 1967 (Dì Julie và gã cạo giấy. Bản dịch của Việt Vũ, 1986Dì Hulia và nhà văn quèn), M.V.Llosa đã mô tả hình tượng một phụ nữ có quan điểm phóng túng về tình yêu và hôn nhân. Dì Julia đã cuốn hút kỳ lạ đối với cậu bé Marito. Chàng sinh viên khoa luật 18 tuổi, mà dưới mắt dì là miệng còn bấm ra sữa, đã táo bạo hôn lên môi dì... (La tante Julia et le scribouillard-1967)(5).

Tất nhiên, trong cuộc đời của M.V.Llosa không chỉ là “nàng Elma nổi loạn”. Ông nói rằng, đàn bà luôn quan trọng và không thể thiếu trong cuộc đời của ông. Không phải lúc mười 19 tuổi, ông mới biết “mùi đàn bà” qua dì Julia (32 tuổi). Đáp lại câu hỏi của phóng viên báo Le Loin.fr: “Lần đầu tiên, ông đã bị ái tình đánh gục như thế nào?”, Mario tiết lộ: “Đó là lúc lên 10, ở Bolivie, một nghệ sĩ xiếc; tôi không nhớ rõ khuôn mặt cô ta, nhưng thân thể rất đẹp, được bó chặt trong chiếc áo tắm màu hồng. Đó là lần đầu tiên, tôi đã mơ đến đàn bà”(2). Hiện Mario V.Llosa sống với Partria - người vợ thứ hai, sau cuộc hôn nhân tai tiếng với Juilia.


Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói chính trị gia, đó là con người văn chương anh ta đang hành động 

Thông thường, chính trị đối kháng với văn chương. Nhất là những thể chế kìm hãm tự do và hạ thấp giá trị nhân văn của loài người. Tuy nhiên, cả hai đều song hành. Mario V.Llosa là một chứng nhân sinh động. Có phải nhờ vào “vụ thất bại” trên chính trường tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà Mario V.Llosa đã giật giải Nobel văn học danh giá? Ngược lại, có phải nhờ những dấn thân vào con đường chính trị mà Mario V.Llosa trở thành một tiểu thuyết gia sáng giá trên văn đàn châu Mỹ-latinh? Có lẽ cả hai. Trả lời giới báo truyền thông châu Âu, M.V.Llosa cho rằng: nhà văn là phải dấn thân; văn học phải gắn với chính trị, hư cấu tưởng tượng phải gắn với hiện thực và trải nghiệm. Văn chương có thể là một công cụ góp phần kiến tạo nên một xã hội tự do, nhưng cũng có thể có khả năng phá hủy nó. Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói của một chính trị gia, đó là lúc, con người văn chương anh ta đang hành động (Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống, Nguồn tiếng Pháp Mario Vargas Llosa. La liberté et la vie http://www.nonfiction.fr)(1).

Nếu tôi không nhầm thì Mario V.Llosa là trường hợp thứ hai trên thế giới - nhờ thất bại thảm hại trên chính trường chính trị mà thành danh trên lĩnh vực văn chương. Đó là nhà thơ lãng mạn Pháp nổi tiếng Lamartine (1790-1869). Lamartine từng thất bại trước đối thủ lừng danh là Napoléon Bonaparte. Và nhờ sự kiện này, Lamartine vùi đầu vào thế giới thi ca và trở thành một nhà thơ lớn của trào lưu lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Giờ đây, người đời chỉ nhớ đến tập “Trầm tư thơ ca”, còn mấy ai quan tâm đến một chính trị gia Lamartine? Vậy thì, rõ ràng văn chương có giá trị bền lâu hơn chính trị? Có phải Mario V.Llosa sẽ không thể đoạt giải Nobel, nếu ông đắc cử tổng thống?

Sự kiện đoạt giải Nobel của Mario Varga Llosa đã làm sống dậy làn sóng văn chương châu Mỹ-latinh, vốn đã châm ngòi từ lâu và bùng nổ hơn hai mươi năm qua G.Marquez. Cũng vậy, người Tây Ban Nha rất đỗi tự hào vì đã khẳng định được sức mạnh và sự quyến rũ của ngôn ngữ dân tộc mình. Cùng với những giải thưởng danh giá như Cervantes (1994), Jérusalème (1995), giải Nobel văn học 2010 đã đưa tên tuổi Mario Vargas LLosa lên vị trị hàng đầu của những cây bút sáng giá ở châu Âu. Tất nhiên, tư tưởng chính trị phức tạp của ông là vấn đề còn phải bàn cãi. 

T.H.S
(261/11-10)



------------
(1) Mario Vargas Llosa, La liberté et la vie, http://www.nonfiction.fr/article).
(2) V.Hugo, les femmes et moi, Le Point.fr, http://www.lepoint.fr).
3. Mario Vargas Llosa, Victor Hugo et “Les Misérables”.
http://www.monde-diplomatique.fr
(4) Flaubert et Madame Bovary,
http://livres.fluctuat.net/mario-vargas-llosa/livres/l-orgie-perpetuelle-flaubert-et-madame-bovary/
(5) La tía Julia y el escribidor, 1977 (La tante Julia et le scribouillard, 1980, Éditions Gallimard, Paris, France). Chuyển dịch tiếng Pháp bởi Albert Bensoussan.
Bạn có thể vào nguồn này để xem trọn bộ filme: filmehttp://www.ameriquelatine.msh-paris.fr






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)