Nhà văn Mario Vargas Llosa - Ảnh: internet
Ngoài cuộc hôn nhân với “bà dì” hơn mình mười lăm tuổi, mà báo giới cho là vô đạo, vụ thất bại tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà kết cục là phải sang lánh nạn chính trị ở Tây Ban Nha, thì Paris - kinh đô nghệ thuật và trí tuệ đã đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của con người lừng danh này. Paris - nơi nảy sinh những đam mê trong tôi Mario Vargas Llosa khẳng định rằng, Paris chính là nơi ông đã trở thành nhà văn. Nơi mà ông đã tiếp thu tư tưởng triết học hiện sinh của Camus, Sartres, cũng như tinh thần tự do, nhân đạo của các nhà văn Pháp thế kỷ XIX. Cũng nơi đây, ông đã viết những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng, đánh dấu phong cách của một tài năng nghệ thuật, đặc biệt là tác phẩm La ville et les chiens, 1963 (Thành phố và những con cho). M.V.Llosa đã phơi bày sự thật trước công luận thế giới về một xã hội - chính trị hà khắc, tàn tệ của Peru những năm 50-60. Ngay lập tức, tác phẩm được đoạt giải Biblioteca Breve và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Tiếp theo đó là La Maison verte, 1966 (Ngôi nhà xanh), và đoạt ngay giải Rómulo Gallegos. Nói chung, danh tiếng văn chương của ông được biết đến, trước hết là ở Pháp, chứ không phải là Peru hay Tây Ban Nha. Từ những thập niên 70, ông đã trở thành nhà văn quen biết của độc giả Pháp. Trả lời phóng viên báo chí, ông nói rằng: “Nếu như phải chọn một thành phố để sống, tôi sẽ chọn Luân Đôn. Nhưng Luân Đôn không phải là nơi nảy sinh trong tôi những đam mê sáng tạo, như tôi đã khám phá ở Paris. Bảy năm ở Paris đã có tính quyết định trong cuộc sống của tôi. Đấy là nơi tôi đã trở thành nhà văn, nơi tôi đã có những đam mê tình yêu… Quả thực, tôi không phóng đại, nếu như tôi nói rằng, tôi đã trải qua tất cả giấc mơ tuổi hoa niên ở Paris” (Lược dịch từ tiếng Pháp: Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống).(1) M.V.Llosa sống và làm việc tại Paris trong khoảng thời gian từ năm 1959 đến 1966. Ông “vào vai” với tư cách là một phóng viên cho hãng thông tấn Pháp AFP, sau đó giảng dạy tiếng Tây Ban Nha ở các trường trung học. Đây chính là một thời kỳ diễn ra các cuộc tranh luận học thuật rất sôi động trên nhiều lĩnh vực như triết học, tôn giáo chính trị - xã hội; cũng là chốn “tụ tập” của các nhà tư tưởng châu Âu, đặc biệt là các chính trị gia đang lánh nạn chính trị. M.V.Llosa đã hẹn gặp các nhà trí thức nổi tiếng như Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simonne de Beauvoir… Với tư cách là một phóng viên, một nhà văn, ông đã có điều kiện tham dự các cuộc thảo luận thú vị và gay cấn về chính trị và nghệ thuật. Sống trong không khí sôi động của những năm tháng chuẩn bị cho cuộc bạo động tháng Năm - 1968 (một cuộc biểu tình lớn chưa từng có ở Paris, thay đổi căn bản các chính sách của nước Pháp); rõ ràng, M.V.Llosa có điều kiện để chiêm nghiệm các vấn đề của xã hội Peru. Phải chăng, tư tưởng chính trị phức tạp của ông được hình thành từ đây? Gạt bỏ những quan điểm cực đoan, Mario.V.Llosa, trên hết hướng đến tư tưởng tự do, tinh thần phản kháng quyết liệt của con người cá nhân. Vì sao phải là V.Hugo? Trước hết, đó là sự ảnh hưởng sâu sắc của V. Hugo. Trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên báo Le Point, với tựa đề Hugo, les femmes et moi (V.Hugo, những người đàn bà và tôi), M.V.Llosa đã cho biết những ảnh hưởng sâu sắc của Hugo đối với tư tưởng sáng tác của mình: “Tôi đã đọc Les Misérapbles khi tôi còn rất trẻ. Cuốn sách này đã gây cho tôi một sự xúc động cực điểm, đến mức, tôi không thể đọc lại nó trong những năm sau. Tôi đã có những ý tưởng tuyệt vời về cuốn tiểu thuyết này; và nó đã thay đổi cuộc sống của tôi. Tôi đã đọc lại tác phẩm này vào những năm 70… Đó không chỉ là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu, mà còn là sự biện minh cho tinh thần nhân đạo của con người...”(2). Theo ông, V.Hugo được tôn thờ như một biểu tượng văn hóa thiêng liêng, là bởi ít có nhà văn nào trên thế giới, lại đặt ra những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, nhất là nỗi đau và khát vọng của con người như trong tác phẩm của đại văn hào này. Không chỉ ảnh hưởng về tư tưởng sáng tác, M.V.Llosa còn dành riêng một công trình khảo cứu về V.Hugo dưới tựa đề: “Tentation de l’impossible” (tạm dịch Sự cám dỗ của điều kỳ dị(3). Cuốn sách là những nghiên cứu rất công phu của ông về V.Hugo qua tác phẩm Những người cùng khổ. M.V.Llosa đã làm sáng tỏ tư tưởng đạo đức, chính trị và tôn giáo của Hugo, dưới thời đại của đế chế Napoléon Bonaparte. Đặc biệt là vấn đề hiện thực và hư vô trong thế giới nghệ thuật của Hugo. Cuốn tiểu luận này được các nhà phê bình Pháp cho là một sự kiện văn học. * V.Hugo và M.V.Llosa: những tuổi thơ không bình yên Ngoài vấn đề văn chương, có lẽ Mario V.Llosa còn đồng cảm với V.Hugo trên hai phương diện: Tuổi ấu thơ không mấy bình yên và cuộc sống lưu vong. Anh em V.Hugo trải qua một tuổi thơ vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Cha mẹ ly hôn. Anh em Hugo phải sống với mẹ - một người phụ nữ theo khuynh hướng Bảo Hoàng, với tư tưởng vừa phóng túng vừa nghiêm cẩn. Còn người cha - một thiếu tá trong quân đội đã trở thành đối tượng của lòng yêu thương và căm hận trong cảm thức tuổi thơ của V.Hugo (thậm chí, ông từng chối từ sự trợ cấp của cha). M.V.Llosa còn tệ hơn. Ông bị cha bỏ rơi từ khi còn mấy tháng tuổi. Rời Arequipa - nơi vừa sinh ra (1936), đứa trẻ “ngơ ngác” cùng với mẹ đến trang trại miền Bolivia của ông bà ngoại. Năm 1946, M.V.Llosa buộc phải về thủ đô Lima sống với cha. Và tại đây, cậu bé Llosa bị người cha độc đoán đưa vào học tại Học viện quân sự Léoncio Prado, để “triệt tiêu” ý định theo đuổi nghiệp văn chương. Một nghề nghiệp, mà theo ông ta là phù phiếm. Người cha trong mắt của Llosa là một bộ mặt lạnh lùng, thô bạo và độc đoán. Chân dung người cha được chuyển hóa vào những hình tượng khác nhau qua chủ đề về chính trị -xã hội. * V.Hugo và M.V.Llosa: sáng tạo nghệ thuật bằng cảm thức lưu vong Thế hệ của Mario Vargas Llosa là một thế hệ mang cảm thức lưu vong. Và hình như các nhà văn Nobel gần đây đều vậy. Trước V.Llosa, Hugo cũng phải sống lưu vong. V.Hugo đã phản ứng lại chính sách độc tài của Napoléon III và bị lưu đày gần hai mươi năm ở các nước như Bỉ, Anh. Ông đã viết bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ trong những năm tháng sống lưu vong khốn khổ. Và nhờ người tình Juliette Drouet lưu giữ bản thảo, nếu không, có lẽ tác phẩm vĩ đại này đã không đến tay chúng ta ngày hôm nay. Tất nhiên,V.Hugo trở về Pháp trong niềm yêu mến đến mức tôn sùng của công chúng Paris. Bằng chứng là sinh nhật lần thứ 80, hàng ngàn người đổ xuống đại lộ D’Eylau để xưng tụng ông như một vị thánh. Mario Vargas Llosa thì bi đát hơn. Vụ tranh cử tổng thống 1990, khiến cho ông phải rời đất nước Peru - trước sự thù địch gay gắt với nhà chính trị độc tài Alberto Fujimo. Hầu hết, những tác phẩm của ông đều viết ở Pháp và Tây Ban Nha với một cảm thức của một người sống lưu vong như: La Maison verte - 1965, La Ville et les chiens - 1966, La tante Julia et le scribouillard - 1967, Conversation à la cathédrale - 1973, La Guerre de la fin du monde - 1980... Tuy nhiên, cũng chính vì vậy mà ông đã nhìn đất nước Peru ở những góc độ khác: sự thối nát, mục ruỗng, tàn tệ của bộ máy chính trị. Với Flaubert và nàng Emma Bovary nổi loạn? Theo Mario V.Llosa, Flaubert là bài học về sự khổ hạnh trong sáng tạo và sự nổi loạn về tình yêu tự do. Flaubert là một điển hình cho sự nỗ lực hết mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đó là bài học về tài năng và sự kiếm tìm bản thân thông qua những “khổ ải”. Ông nói rằng, những cố gắng trong lao động nghệ thuật của Flaubert là bài học để ông vượt lên chính mình. Ông tạo lập cho mình một nguyên tắc lao động khổ hạnh (thức dậy lúc 5h và viết cho đến 14h). Ông cũng đã có một tiểu luận về Flaubert, được xuất bản từ năm 1975, được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề Flaubert et Madame Bovary, 1978. Trong cuốn tiểu luận này, M.V.Llossa khẳng định, Flaubert chính là cha đẻ của Tiểu thuyết mới “le père du nouveau roman”(4). Flaubert đã phân hủy những yếu tố đông cứng của tiểu thuyết truyền thống như người kể chuyện, thời gian trần thuật, đặc biệt, đã kiến tạo nên những câu văn tuyệt vời, ẩn tàng tính đối thoại và độc thoại. Cũng chính vì vậy mà hình tượng Elma Bovary trở nên sinh động, nhiều chiều. Phải chăng, sự nổi loạn của nàng Elma là hình ảnh gần gũi đối với người vợ đầu tiên của ông - mối tình say mê kỳ lạ mà ông đã chịu bao nhiêu búa rìu dư luận luận cũng như sự cấm đoán từ phía gia đình? Trong cuốn tiểu thuyết có tính tự truyện: La tante Julia et le scribouillard - 1967 (Dì Julie và gã cạo giấy. Bản dịch của Việt Vũ, 1986 là Dì Hulia và nhà văn quèn), M.V.Llosa đã mô tả hình tượng một phụ nữ có quan điểm phóng túng về tình yêu và hôn nhân. Dì Julia đã cuốn hút kỳ lạ đối với cậu bé Marito. Chàng sinh viên khoa luật 18 tuổi, mà dưới mắt dì là miệng còn bấm ra sữa, đã táo bạo hôn lên môi dì... (La tante Julia et le scribouillard-1967)(5). Tất nhiên, trong cuộc đời của M.V.Llosa không chỉ là “nàng Elma nổi loạn”. Ông nói rằng, đàn bà luôn quan trọng và không thể thiếu trong cuộc đời của ông. Không phải lúc mười 19 tuổi, ông mới biết “mùi đàn bà” qua dì Julia (32 tuổi). Đáp lại câu hỏi của phóng viên báo Le Loin.fr: “Lần đầu tiên, ông đã bị ái tình đánh gục như thế nào?”, Mario tiết lộ: “Đó là lúc lên 10, ở Bolivie, một nghệ sĩ xiếc; tôi không nhớ rõ khuôn mặt cô ta, nhưng thân thể rất đẹp, được bó chặt trong chiếc áo tắm màu hồng. Đó là lần đầu tiên, tôi đã mơ đến đàn bà”(2). Hiện Mario V.Llosa sống với Partria - người vợ thứ hai, sau cuộc hôn nhân tai tiếng với Juilia. Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói chính trị gia, đó là con người văn chương anh ta đang hành động Thông thường, chính trị đối kháng với văn chương. Nhất là những thể chế kìm hãm tự do và hạ thấp giá trị nhân văn của loài người. Tuy nhiên, cả hai đều song hành. Mario V.Llosa là một chứng nhân sinh động. Có phải nhờ vào “vụ thất bại” trên chính trường tranh cử tổng thống hồi năm 1990, mà Mario V.Llosa đã giật giải Nobel văn học danh giá? Ngược lại, có phải nhờ những dấn thân vào con đường chính trị mà Mario V.Llosa trở thành một tiểu thuyết gia sáng giá trên văn đàn châu Mỹ-latinh? Có lẽ cả hai. Trả lời giới báo truyền thông châu Âu, M.V.Llosa cho rằng: nhà văn là phải dấn thân; văn học phải gắn với chính trị, hư cấu tưởng tượng phải gắn với hiện thực và trải nghiệm. Văn chương có thể là một công cụ góp phần kiến tạo nên một xã hội tự do, nhưng cũng có thể có khả năng phá hủy nó. Khi một tiểu thuyết gia nói tiếng nói của một chính trị gia, đó là lúc, con người văn chương anh ta đang hành động (Mario Vargas Llosa: Tự do và cuộc sống, Nguồn tiếng Pháp Mario Vargas Llosa. La liberté et la vie http://www.nonfiction.fr)(1). Nếu tôi không nhầm thì Mario V.Llosa là trường hợp thứ hai trên thế giới - nhờ thất bại thảm hại trên chính trường chính trị mà thành danh trên lĩnh vực văn chương. Đó là nhà thơ lãng mạn Pháp nổi tiếng Lamartine (1790-1869). Lamartine từng thất bại trước đối thủ lừng danh là Napoléon Bonaparte. Và nhờ sự kiện này, Lamartine vùi đầu vào thế giới thi ca và trở thành một nhà thơ lớn của trào lưu lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Giờ đây, người đời chỉ nhớ đến tập “Trầm tư thơ ca”, còn mấy ai quan tâm đến một chính trị gia Lamartine? Vậy thì, rõ ràng văn chương có giá trị bền lâu hơn chính trị? Có phải Mario V.Llosa sẽ không thể đoạt giải Nobel, nếu ông đắc cử tổng thống? Sự kiện đoạt giải Nobel của Mario Varga Llosa đã làm sống dậy làn sóng văn chương châu Mỹ-latinh, vốn đã châm ngòi từ lâu và bùng nổ hơn hai mươi năm qua G.Marquez. Cũng vậy, người Tây Ban Nha rất đỗi tự hào vì đã khẳng định được sức mạnh và sự quyến rũ của ngôn ngữ dân tộc mình. Cùng với những giải thưởng danh giá như Cervantes (1994), Jérusalème (1995), giải Nobel văn học 2010 đã đưa tên tuổi Mario Vargas LLosa lên vị trị hàng đầu của những cây bút sáng giá ở châu Âu. Tất nhiên, tư tưởng chính trị phức tạp của ông là vấn đề còn phải bàn cãi. T.H.S (261/11-10) ------------ (1) Mario Vargas Llosa, La liberté et la vie, http://www.nonfiction.fr/article). (2) V.Hugo, les femmes et moi, Le Point.fr, http://www.lepoint.fr). 3. Mario Vargas Llosa, Victor Hugo et “Les Misérables”. http://www.monde-diplomatique.fr (4) Flaubert et Madame Bovary, http://livres.fluctuat.net/mario-vargas-llosa/livres/l-orgie-perpetuelle-flaubert-et-madame-bovary/ (5) La tía Julia y el escribidor, 1977 (La tante Julia et le scribouillard, 1980, Éditions Gallimard, Paris, France). Chuyển dịch tiếng Pháp bởi Albert Bensoussan. Bạn có thể vào nguồn này để xem trọn bộ filme: filmehttp://www.ameriquelatine.msh-paris.fr |
THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.
Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.
Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.
Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.
TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.
AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.
Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)
HOÀNG NGỌC HIẾN (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.
THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.
HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.
LÊ ĐẠT Đường bụi trang lịch cũ ếp ếp đàn thời gian L.Đ
HOÀNG NGỌC HIẾN (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).
VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.
NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)
NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.