Mai Xuân Hòa - nhạc sỹ của tuổi thơ

09:40 22/11/2012

HỒ THẾ HÀ

Năm con rồng Nhâm Thìn (2012), Mai Xuân Hòa tròn 82 tuổi đời và nếu tính từ ngày anh tham gia học lớp âm nhạc ngắn hạn đầu tiên năm 1956, trước khi chính thức học ở trường Âm nhạc Việt Nam (1958 - 1962) thì anh đã có 56 tuổi nghề âm nhạc.

Nhạc sĩ Mai Xuân Hòa tại nhà riêng - Ảnh: voque.org

Một con số có ý nghĩa thông báo đặc biệt, không chỉ đối với anh, mà còn đối với nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Những giá trị mỹ học âm nhạc mà anh đóng góp trọn cả cuộc đời mình vào thành tựu chung của nền âm nhạc nước nhà là đáng được ca ngợi và tôn vinh.

Nói đến thành tựu tổng thể về âm nhạc của Mai Xuân Hòa, cần có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu từ thể loại, giai điệu, âm thanh đến ca từ, chủ đề, tư tưởng... Mỗi chỉnh thể ca khúc của Mai Xuân Hòa, theo tôi, anh đã tạo được ý hướng tính thống nhất mà đa dạng, làm thành phong cách riêng ổn định nhưng có pháthay trong từng tuyển tập, từng yếu tố âm nhạc để không đơn điệu và trùng lặp. Đó chính là ý thức và đạo đức nghề nghiệp mà anh đã tự giác và tâm nguyện thể hiện trên suốt hành trình sáng tạo của mình. Điều này, tưởng đơn giản nhưng với số lượng lên đến trên dưới 300 ca khúc thì vấn đề trên lại không dễ dàng chút nào. Nếu không có nội lực, vốn sống, vốn văn hóa và đặc biệt là tay nghề chuyên môn cao thì khó mà tạo ra được hiệu quả nghệ thuật như thế.

Trong bài viết ngắn mang tính đồng cảm này, tôi muốn đề cập đến mảng ca khúc viết cho thiếu nhi của Mai Xuân Hòa ở mặt ngôn từ và tư tưởng. Ngoài những tuyển tập ca khúc trữ tình đời tư, tình yêu và thế sự dành cho người lớn, Mai Xuân Hòa gần như dành hết tâm huyết của mình để sáng tác ca khúc cho tuổi thơ đủ mọi lứa tuổi. Những phần thưởng cao quý các cấp trung ương dành cho anh phần lớn đều là những ca khúc viết cho thiếu nhi. Có thể điểm lại thành tựu âm nhạc của anh dành cho đối tượng này được xuất bản, dàn dựng, thu âm và phát sóng trên các phương tiện thông tin đại chúng trung ương và địa phương, đó là Những điều em thích (tập ca khúc - 1996), Ngôi sao đẹp (tập ca khúc - 1998), Nụ và hoa (tập ca khúc - 2000), Mặt trời tí hon (tập ca khúc và 2 ca cảnh - 2003), Đố bạn biết (tập bài hát phục vụ 9 chủ điểm giáo dục trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi - 2004). Tiếp sau, có Huyền thoại Ngự Bình, Hương Giang (tập ca cảnh - 2007), Bay lên với mùa thu (tập ca khúc và ca cảnh - 2009). Đó là chưa kể, ở những tuyển tập nhiều tác giả cấp quốc gia, bao giờ Mai Xuân Hòa cũng được đặt ở vị trí xứng đáng với những ca khúc nổi tiếng được chọn đưa vào chương trình giáo dục thẩm mỹ cho các em ở các bậc học.

Với những thành tựu như thế, phải nói là nghĩa tình, cao quý và sâu nặng - những phần thưởng tinh thần vô giá mà anh luôn ấp ủ, hiến dâng cho các em dù anh đã từng chân tình và khiêm tốn tâm sự: “Tôi chưa bao giờ có tham vọng trở thành nhạc sĩ nổi tiếng viết về thiếu nhi, chỉ mong những ca khúc viết ra là món quà tinh thần luôn được các cháu đón nhận”. Vâng! Những mong ước ấy của anh đã thành sự thật. Ca khúc của anh được các em đón nhận và thuộc, được nhận thức và giáo dục một cách trực tiếp. Và đó cũng chính là phần thưởng mà các em biết ơn và dành tặng cho nhạc sĩ lão thành yêu kính của mình. Còn gì vinh dự hơn đối với cuộc đời một nghệ sĩ - nhạc sĩ như thế!

Tôi gọi toàn bộ sáng tác mà anh dành cho trẻ thơ là thế giới thần tiên của tuổi thơ bao la, rộng mở, sáng trong. Hình như đó là vương quốc của chính tuổi thơ anh hoặc do anh nhập vai vào thế giới chung quanh, giờ được đồng hiện trong nhiều mối quan hệ của thực tại và tưởng tượng nên nó có khả năng hóa giải bao niềm vui nhân ái của cõi người - thông qua thế giới thẩm mỹ âm thanh.

Không yêu tuổi thơ, không mở lòng mình để đón nhận và ao ước vào những non tơ, vào những điều tốt đẹp mà các em mơ ước, thì không thể nào nhập vai và nhập hồn mình vào thiên nhiên, tạo vật, rồi sau đó làm hiện lên những tương hợp âm thanh, màu sắc và hương thơm bằng thế giới âm nhạc để mời gọi các em cùng đồng hành với chính mình đi qua mọi xứ sở mộng mơ và hiện thực, để được quay ngược dòng sông ký ức cội nguồn tìm lại kỷ niệm những ngày xưa thân ái cùng các em trong hiện tại: “Nay xin hiến trọn một đời - Chỉ làm quả bóng cho mặt trời tí hon”. Phải nói là Mai Xuân Hòa đã thực sự làm chủ tâm hồn, làm chủ ngôn ngữ và hình tượng âm nhạc một cách tự nhiên và hồn nhiên như anh đã tâm sự khi được hỏi về những cảm hứng nghề nghiệp: “Tôi nghĩ, trước hết phải yêu và hiểu trẻ. Có hiểu và yêu trẻ mới tạo ra được hình tượng và ngôn ngữ của chúng. Trẻ con tư duy rất đơn giản, hình tượng rất cụ thể, có nghĩa là chúng phải bắt gặp, trông thấy và có thể sờ mó được. Vì thế mà không thể áp đặt suy nghĩ của người lớn vào bài hát mà hãy đặt mình vào trẻ để tư duy bằng suy nghĩ của chính các em.” (Trả lời phỏng vấn của nhà báo Hạnh Nhi).

Vì vậy, những sáng tác cho thiếu nhi của Mai Xuân Hòa bao giờ cũng phù hợp với từng nội dung và lứa tuổi cùng những giai điệu linh hoạt và giàu tính tạo hình, cốt làm sao giúp các em nội cảm hóa trực tiếp từng nội dung, từng chủ đề, để sau đó hiểu, cảm xúc, suy nghĩ và hành vi theo sự mách bảo và kích thích từ thế giới âm thanh - hình tượng của chúng. Ví như các ca khúc Những ngôi sao đẹp, Đội đồng ca chúng ta, Cháu yêu Bác lắm, Em là lính mới... đều tuân thủ tính chỉnh thể nghệ thuật theo đặc trưng thể loại âm nhạc một cách cao độ. Điều ấy cho thấy, tác giả là người vững về nhạc lý đồng thời vững về ca từ và nghệ thuật tương hợp (l’ art correspondant) - điều rất cần với ca khúc viết cho thiếu nhi.

Như vậy, viết cho thiếu nhi trước hết phải hiểu và đón được tâm lý lứa tuổi, phải nhập vào những rung động phong phú, vui tươi và ngộ nghĩnh theo tầm đón nhận của các em, chưa kể là còn phải chú ý đến chất truyện trong từng diễn biến, từng cảnh ngộ - đặc biệt là các sáng tác ca cảnh, hoạt cảnh và trò chơi như: Cái bẫy, Ngày hội xuân, Hươu và cáo, Thỏ vàng lém lỉnh, Huyền thoại Ngự Bình và Hương Giang (ca cảnh), Vườn trường em, Bạn ơi đừng quên (hoạt cảnh), Em hái quả (trò chơi). Ở từng thể loại này, hiện thực và tâm trạng được dẫn dắt, đối đáp như một màn kịch nhỏ, các em có thể ứng dụng trong sinh hoạt và dã ngoại tập thể rất sinh động. Những ca khúc tuyển trong Bay lên với mùa thu, không phải tất cả đều hay, nhưng toàn cục phải nói là hấp dẫn, đáp ứng được nhu cầu thức nhận trực quan và suy tư trừu tượng cho các em thiếu nhi, đáp ứng yêu cầu vừa vui chơi, vừa học tập, vừa phát triển năng lực thẩm mỹ của các em.

Trước hết là cách quan sát và kể chuyện, miêu tả từng vấn đề, từng câu chuyện, từng sự vật, hiện tượng theo giai điệu và cấu thức âm nhạc. Ở đấy, sự liên kết hình ảnh, ca từ, vần và giai điệu được Mai Xuân Hòa dụng công thể hiện có nghệ thuật cả người lớn cũng thích, chứ không riêng gì thiếu nhi, ví như các ca khúc Hát mừng ngàn năm Thăng Long, Đội đồng ca, Em gọi mùa xuân, Ước mơ của em, Ánh lửa hồng... Sự tổng hợp, có khi là nguyên hợp trong ca khúc của Mai Xuân Hòa rất phù hợp và có ưu thế với nghệ thuật biểu diễn sân khấu là thế. Tôi chỉ minh chứng Hát mừng ngàn năm Thăng Long để xác tín điều này: “Trống đồng ngân vang rộn rã đất trời - Rồng thiên vút cao bay lượn tuyệt vời, ngàn năm Thăng Long thắm đẹp lòng người - Rực trời phao hoa chào đón ngày vui - Mẹ là Âu Cơ đẻ ra trăm trứng - Đứa đi lên rừng người về đất biển xây núi đào sông dựng nên Âu Lạc - Bắc Nam một dải rồng bay rồng bay, ngàn bông hoa xinh tỏa ngát dâng đời chim lạc chim hồng tung cánh muôn nơi - Tổ quốc yêu thương lớn như Phù Đổng, đường rộng thênh thang Việt Nam Việt Nam”.

Mai Xuân Hòa thường dùng ca từ với số chữ nhất định trong câu như, 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, có khi là lục bát hoặc tự do có cải biên, láy và điệp từ để tạo thành những giai điệu linh hoạt, lạc quan, phù hợp với từng trạng thái cảm xúc của tuổi thơ. Cảnh vật và con người tương hợp trong không - thời gian êm đềm, thơ mộng.

Anh chú ý ưu tiên cho nhịp đồng dao vui tươi, có điệu thức, nhí nhảnh, phù hợp với không khí vừa chơi vừa hát của các em. Những ca khúc theo thể này của anh có sức vang ngân. Ở đó, anh thường thể hiện những hình tượng và rung cảm có phần trực quan vừa có phần cảm nghĩ duy lý với những cung bậc nhẹ nhàng và tinh tế từ những cảnh vật gần gũi chung quanh.

Trở lại với thế giới hiện thực trong nhạc Mai Xuân Hòa. Anh thường lấy con người, cảnh thiên nhiên, làng quê và những con vật, những đồ vật gần gũi chung quanh rồi thổi vào đó những nội dung, những quan niệm, những biểu trưng, ẩn dụ, nhân hóa vừa gần gũi vừa bất ngờ đã tạo được sự cộng cảm và thú vị mới lạ: “Con thương ba to bằng ông trời - Con thương mẹ lớn hơn mặt trăng - Mặt trời, mặt trăng ở đâu cũng sáng - Con đến đâu là cùng đi theo con” (Thương ba thương mẹ). Có thể dẫn ra hàng trăm ví dụ như thế trong thế giới âm thanh của Mai Xuân Hòa.

Chất truyện và cách tả trong nhạc thiếu nhi của Mai Xuân Hòa phù hợp với cách quan sát và cảm nhận của từng lứa tuổi, bởi vì anh luôn lấy tiêu chí chân thực, hồn nhiên tươi trẻ, ngộ nghĩnh tin yêu, lạc quan và yêu đời để nói hộ các em. Và vì vậy, trong nhạc, những câu hỏi thường xuất hiện. Những câu hỏi ấy thường có câu trả lời sát, đúng với thực tiễn, có khi là những câu hỏi tu từ. Tôi nghĩ, những hiểu biết và nhận thức về đức - trí - thể - mỹ của trẻ thơ thường bắt đầu từ những nghi vấn nên thơ và hồn nhiên như thế, nhất là thông qua loại hình âm nhạc: “Ai trồng hoa cho chúng em hái, ai chăm quả cho chúng em ăn - Ai chăm lo chúng em học hành dạy bảo chúng em nên người - Ai ra công xây bao nhà máy, ai gây dựng khắp nơi nông trường - Ai ra khơi đi tìm luồng cá, đồng mặn chua thành biển lúa vàng? (Chúng em hát mừng Đảng).

Thế giới tuổi thơ là thế giới thần tiên mà ở đó ngôi nhà tâm hồn các em mỗi ngày thêm biếc xanh, bỡ ngỡ. Người làm nhạc cho thiếu nhi là người nhiều lần đóng vai - nhưng là đóng vai chân thật, chứ không phải đóng vai kịch trên sân khấu với những lời thoại và động tác giả tạo, thiếu tài năng. Trong lao động nghệ thuật, đặc biệt là lao động âm nhạc, tác giả phải là người có vốn sống phong phú, có tâm hồn luôn nhạy cảm trước cả những gì bé nhỏ nhất, gần gũi và quen thuộc nhất, nhưng phải là những nhạy cảm có tính nghệ thuật bất ngờ đồng nghĩa với những giá trị và khám phá mới mẻ, độc đáo. Muốn vậy, nhạc sĩ phải có năng lực tưởng tượng dồi dào; trong đó khả năng hư cấu - có cả hư cấu hình tượng âm nhạc theo kiểu cảm nhận và tư duy trẻ thơ cần được ưu tiên thể hiện, càng mới lạ và bất ngờ càng tốt. Về tiêu chuẩn này, như tác giả tâm sự: “Trong quá trình sáng tác, đôi khi tôi cũng có những điều gán ép và thực sự thì với những ca khúc ấy, các em không còn nhớ. Nhưng cái gì ngộ nghĩnh sẽ còn lại”.

Từ mong mỏi ấy, nhạc thiếu nhi của Mai Xuân Hòa ngày càng có khuynh hướng muốn vươn lên những vấn đề lớn lao, có liên quan đến việc giáo dục sự hiểu biết và trách nhiệm cho các em. Các nhạc phẩm Đóa sen hồng, Chúng em hát mừng Đảng, Người bước vào lớp học, Em yêu Hà Nội, Cháu yêu Bác lắm, Đường chúng em đi... là mơ ước và trách nhiệm và khát khao nhận thức của các em về dân tộc, về quê hương, về Bác Hồ và những gì cao cả, thiêng liêng khác. Từ tình yêu quê hương sẽ mở ra tình yêu đất nước rộng dài mà ca khúc Bay lên với mùa thu, Đóa sen hồng là liên hệ có cơ sở để nghĩ về truyền thống dân tộc, nghĩ về bác Hồ kính yêu. Logic âm nhạc qua âm thanh và giai điệu càng làm cho hình tượng và cảm xúc trở nên tha thiết và mỹ cảm âm thanh hiện lên ngân vang, da diết.

Cũng cần ghi nhận thành công và ý thức ghề nghiệp của Mai Xuân Hòa ở các tác phẩm giai đoạn sau, đó là anh luôn suy nghĩ, thể nghiệm để kết hợp các yếu tố tích cực của văn hóa và văn học dân gian vào âm nhạc, làm giàu khả năng thẩm mỹ cho âm nhạc thiếu nhi và cả âm nhạc dành cho người lớn. Đây là việc làm không dễ vì phải có vốn tri thức chung về các lĩnh vực liên ngành. Nhưng Mai Xuân Hòa đã thành công: “Đưa các chất liệu, sắc thái dân ca vào trong nhạc thiếu nhi phải nhuần nhuyễn, tinh tế và dễ tiếp thu. Và muốn có sáng tác hay về thiếu nhi, người nhạc sĩ phải luôn gần gũi và giàu tình yêu thương trẻ thơ”. Trong các ca khúc của Mai Xuân Hòa, chất dân ca và dân gian hòa tan, bàn bạc trong từng ca từ và giai điệu, làm giàu tính liên văn bản và tính chỉnh thể thẩm mỹ cho từng tác phẩm.

*

Mỗi nghệ sĩ chân chính đều có định phận và nghiệp phận của riêng mình. Nhạc sĩ Mai Xuân Hòa là một định phận và nghiệp phận đầy duyên nợ, tuy có gian nan và hệ lụy nhưng tựu chung là vinh dự và hạnh phúc. Hạnh phúc và vinh dự khi vừa bước vào con đường âm nhạc - khi tuổi đời còn rất trẻ, anh đã gặp Bác Hồ và được biểu diễn nghệ thuật sáo trúc cho Bác nghe, được Bác khuyến khích “Được lắm, hãy cố gắng hơn nữa để trở thành nghệ sĩ giỏi”. Lời động viên ấy chính là động lực, là bệ đỡ để anh tiếp tục theo đuổi con đường nghệ thuật không có điểm kết thúc mà anh gọi là nghiệp dĩ. Và anh đã thành công. Và với ca khúc dành cho thiếu nhi, là thành công nổi bật hơn cả. Đó là hành trình trò chuyện với tuổi thơ không tính năm, tính tuổi để âm nhạc mãi tươi xanh ước mơ và hy vọng cho thế giới thần tiên của tuổi trẻ mà cũng là của chính mình. Còn gì vinh dự và hạnh phúc hơn đối với một nhạc sĩ như thế! Xin chúc mừng và hy vọng vào những tác phẩm lớn cuối đời sắp hoàn thành mà anh luôn ôm ấp: “Khát vọng từ lúc tóc còn xanh, nay đã ngả màu sương trắng, nhưng tôi vẫn ôm ấp nỗi đợi chờ, khát vọng”. Đó là khát vọng một đời người, một đời nghệ sĩ đam mê hiến dâng và sáng tạo.

H.T.H
(SH285/11-12)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nhạc: ĐỨC TÙNG
    Thơ:   HẠO NHIÊN

  • Với mục đích bảo tồn những vốn quí mà cha ông để lại và đặc biệt là sau khi Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại thì Nhã nhạc đã được chú ý hơn, nhưng cái đáng quan tâm hơn hết là vấn đề đi tìm lại những ‘mảnh vỡ” của một số bài bản Nhã nhạc đang lưu lạc ngoài dân gian nhằm mục đích khôi phục để trả nó về với môi trường diễn xướng nguyên thủy là chốn cung đình xưa. Tác phẩm Nhã nhạc “Thái Bình Cổ Nhạc” cũng là một trong những “mảnh vỡ” vừa được lập hồ sơ khoa học và báo cáo. 

  • LÊ MAI PHƯƠNG  

    Tuồng, loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc manh nha hình thành từ thế kỷ XIII dưới thời Trần. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) Tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa ở cung đình cũng như trong dân gian. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, Tuồng cũng mất đi môi trường diễn xướng, hiện nay đang có nguy cơ mai một dần.

  • HOÀNG TRỌNG CƯƠNG 

    Trong một số tài liệu về âm nhạc cung đình của những tác giả tiền bối, cây đàn bầu Việt Nam đã được dự đoán về niên đại ra đời của nó, về sự thăng trầm song hành cùng với chiều dài lịch sử dân tộc.

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Từ 10 năm nay Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco tôn vinh là một kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, là một danh hiệu rất lớn so với những danh hiệu sau này (Unesco đã bỏ chữ “kiệt tác” và thay thế chữ “của” bằng chữ “đại diện”), vì những lẽ đó mà việc bảo tồn và phát triển nhã nhạc Huế có phần khó khăn.

  • HÀN NHÃ LẠC

    Có lẽ hiện giờ ở Huế, không có ai cảm chơi ca Huế được như nhà văn Bửu Ý. Ông thường nói cái hay của ca Huế, nghe hay đến nhức xương. Và ngay từ khi vợ ông, cô Lợi còn sống, mỗi thứ bảy, gia đình ông lại tổ chức nghe ca Huế nhức xương một buổi.

  • Sau khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, âm nhạc cung đình cũng mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, do đó loại hình nghệ thuật này đã theo chân các nghệ nhân cung đình lan tỏa về với dân gian, tác động vào nghệ thuật dân gian trên nhiều vùng văn hóa trong cả nước. 

  • TRỌNG BÌNH

    Nghệ thuật Múa Cung đình Huế mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Trong múa cung đình, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt, điển hình là các điệu: lục cúng hoa đăng, trình tường tập khánh, phụng vũ, tứ linh, vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...

  • VÕ QUÊ

    Dân tộc Việt Nam do hoàn cảnh địa lý và các điều kiện khách quan khác đã có một nền văn hóa đa dạng, trong đó bộ môn Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau.

  • (SHO) Ca sĩ Hà Thanh vừa mất lúc 7g27 đêm 1-1 (giờ địa phương, tức sáng 2-1 giờ VN) tại TP Boston, tiểu bang Massachusetts (Mỹ) sau thời gian mắc bệnh ung thư máu.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Văn Giảng, con người của những nốt nhạc mơ mộng chân nhiên nơi miền non nước Hương Bình đã dấn thân trong miền giao cảm của nước, của sông, của tiếng chuông chùa ngân vọng để viết nên những ca khúc bất hủ Ai về sông Tương, Đôi mắt huyền, Từ Đàm quê hương tôi... tô vẻ thêm cho tiếng lòng vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Ở Huế có câu hò nổi tiếng tới mức không người Huế nào không được nghe, không du khách nào không từng một lần thưởng thức:

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Theo dòng chảy của lịch sử, Ca Huế giờ đây không còn là sản phẩm phục vụ riêng cho một tầng lớp nhất định trong xã hội: giới quý tộc. Cùng với xu hướng xã hội hóa, hiện nay loại hình nghệ thuật này nghiễm nhiên gần gũi hơn với công chúng Huế nói riêng và du khách thập phương nói chung.

  • TRỌNG BÌNH - QUÝ CÁT  

    Nền âm nhạc cổ truyền nói chung và Âm nhạc cung đình Việt Nam nói riêng từ xa xưa đã có một kiểu chữ nhạc riêng dùng để ký âm, ghi chép thành văn bản tất cả các bài bản để lưu truyền qua nhiều thế hệ...

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Huế - theo dòng chảy của thời gian, đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử; âm nhạc Huế cũng không nằm ngoài “luồng” của dòng chảy đó.

  • MAI XUÂN HÒA (Thơ: Nguyễn Tất Thịnh)

    Phải chăng em là gió/ phải chăng em là mây/ Gió nghiêng chao nhè nhẹ/ mây bồng bềnh bay bay…

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản”.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.