Thời gian cứ trôi, các thế kỷ nối tiếp nhau chảy hoài. Thế hệ lớp trước sẽ chẳng đọng lại gì nếu như không có lịch sử ghi lại những biến thiên, những nhân vật lịch sử. Những lớp vỉa lịch sử như tầng phù sa nuôi dưỡng thế hệ sau. Để cho cuộc sống thăng hoa hơn, thêm phần ý nghĩa, con người hiện đại càng tìm thấy ở lịch sử nguồn cảm xúc vô tận để sáng tạo, nhất là trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Tượng vua Lý Thái Tổ ở khu vực Hồ Hoàn Kiếm
Với nước ngoài
Hiện tượng học sinh chán học sử, sợ thi sử không còn là thông tin gì mới lạ. Điều đáng ngạc nhiên là những người thầy dạy sử không tìm ra cách, hoặc không dám bứt phá cách dạy sử để học sinh yêu sử. Nếu cứ dạy sử bằng việc nêu sự kiện, rồi con số thì ai chả ngán ngẩm. Trong khi lịch sử là một tiến trình diễn biến, vận động của các nhân vật lịch sử trên nền sự kiện. Nếu chỉ coi trọng lịch sử như một môn học để giáo dục mà thiếu đi tính chất giải trí, thì học sử đáng sợ là phải.
Trong khi ngại học sử thì học sinh có khi lại thích xem những bộ phim về đề tài lịch sử. Người thích đọc sách thì say mê với truyện ngắn, tiểu thuyết chính sử và dã sử. Và gần đây lại nổi lên hiện tượng sáng tạo kiểu kỳ ảo (fantasy) với đề tài lịch sử.
Từ rất sớm, con người đã lấy lịch sử làm nguồn cảm hứng sáng tạo. Ở thế giới thì nêu không xuể. Từ những bản trường ca lịch sử được lưu lại hậu thế không bằng chữ viết mà bằng truyền miệng. Ví như: Trường ca Iliad. Đây là bản trường ca Hy Lạp cổ nhất và có lẽ hay nhất trong văn học Tây phương. Trường ca này đã tạo cảm hứng cho vô vàn tác phẩm nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc, thi ca cho đến tiểu thuyết, kịch nghệ, âm nhạc, điện ảnh. Cùng với trường ca Iliad, tác giả Homer (một người hát rong truyền thuyết) còn là tác giả của bộ trường ca đồ sộ khác là Odyssey. Tác phẩm Iliad có nội dung dựa trên các thần thoại về cuộc chiến thành Troy. Còn nội dung của Odyssey là trường ca kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật chính Odyssey và hành trình trở về quê hương gian nan của người anh hùng này. Về tác giả Homer, có giả thuyết cho rằng ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 8 TCN. Hai tác phẩm nổi tiếng, Iliad và Odyssey của ông được ghi chép lại chính thức vào thế kỷ thứ VI TCN theo lệnh của Bạo chúa Athena lúc bấy giờ là Peisistratos.
Đến lượt trường ca Iliad lại trở thành một đề tài lịch sử để điện ảnh khai thác. Năm 2004, David Benioff đã viết kịch bản và Wolfgang Petersen đạo diễn bộ phim “Troy”. Bộ phim chi phí hết khoảng 175 triệu USD, một con số kỷ lục của điện ảnh hiện đại. Thế nhưng, phần thưởng cho nhà đầu tư thật xứng đáng khi thu về hơn 497 triệu USD khi công chiếu trên toàn thế giới.
Thế nhưng, xét về phương diện văn học thành văn, sáng tác về lịch sử thì không thể không nói tới “Sử ký” của Tư Mã Thiên. “Sử ký” được Tư Mã Thiên viết từ năm 109 TCN đến năm 91 TCN phản ánh lịch sử Trung Hoa cổ đại trong hơn 2.500 năm từ thời Hoàng đế thần thoại cho tới thời tác giả sống. Để có tư liệu viết trong khoảng 20 năm, Tư Mã Thiên đã dành mấy chục năm đi nhiều nơi trên đất Trung Hoa, nơi diễn ra những sự kiện, xuất hiện nhân vật lịch sử. Ông cần mẫn ghi chép trên các thẻ tre. Những nhân vật lịch sử qua trang sách của ông hiện lên sống động. Thủ pháp tả nhân vật của ông đến ngày hôm nay hậu thế còn ngỡ ngàng. Có thể nêu những nhân vật được xây dựng ám ảnh bạn đọc như Hạng Vũ, Lưu Bang, Hàn Tín, Tần Thủy Hoàng, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Tô Tần, Trương Nghi, Khuất Nguyên, Tôn Tử, Ngô Khởi… Đặc biệt một nhân vật rất quan trọng đối với những nhà nghiên cứu lịch sử nước ta là Triệu Đà. Nhân vật này đến nay còn gây nhiều tranh cãi giữa triều đại chính thống của nước ta hay là ngoại xâm cướp nước của Thục Phán?.
Chính vì có thế mạnh lưu giữ được nhiều bộ cổ sử, nên Trung Quốc ngày nay đã tận dụng để phát triển ngành công nghiệp điện ảnh kết hợp du lịch rất hiệu quả. Nhiều phim trường sau khi được sử dụng quay phim đã đón hàng triệu lượt khách tham quan.
Trong nước
Tác phẩm văn học về đề tài lịch sử nước ta đầu tiên có thể kể là “Lĩnh Nam chích quái” của Trần Thế Pháp. Tác giả sống vào thời kỳ nhà Trần. Đến thời Lê, tác phẩm được Vũ Quỳnh và Kiều Phú san định lại. Tác phẩm thứ hai là “Truyền kỳ mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ. Sách được viết cuối thế kỷ 16. Cũng như “Lĩnh Nam chích quái” nhiều câu chuyện kể vừa chân thực vừa mang yếu tố huyền ảo, ly kỳ cuốn hút. Và gần đây, cách khai thác thác theo lối huyền ảo, ly kỳ này được gọi bằng cái tên “fantasy”. Nhà văn Nguyễn Đình Tú với tiểu thuyết “Bãi săn” là một ví dụ.
Đề tài về lịch sử thời kỳ trung đại và cận hiện đại được các nghệ sĩ Việt Nam khai thác nhiều. Việc xây dựng các nhân vật lịch sử vào truyện ngắn, tiểu thuyết, sân khấu hay điện ảnh từ lâu đã không còn là điều gì mới mẻ. Đầu thế kỷ XX, sau Phan Bội Châu với tác phẩm “Trùng Quang tâm sử” xuất hiện nhiều nhà văn viết lịch sử như Nguyễn Tử Siêu, Tân Dân Tử, Nguyễn Chánh Sắt, Phạm Minh Kiên, Nguyễn Huy Tưởng, Khái Hưng, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật… Càng về sau, lực lượng sáng tác càng đông đảo và bút pháp ngày một đa dạng, không đơn giản như lối văn biền ngẫu ban đầu.
Qua văn học, có những nhân vật hiện lên thật sinh động ví như: Cao Bá Quát qua hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân; Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản trong “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng; Thái sư Trần Thủ Độ trong “Bão táp cung đình” của nhà văn Hoàng Quốc Hải; Hồ Quý Ly trong tác phẩm Hồ Quý Ly của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh; Nhiếp chính Ỷ Lan trong “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo. Có những nhân vật lịch sử được sáng tạo trong nhiều loại hình nghệ thuật.
Ví như hình tượng anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi được thể hiện ở nhiều tác phẩm cả văn học và sân khấu. Về văn học có thể kể “Hội thề” của nhà văn Nguyễn Quang Thân; “Vằng vặc sao khuê” của nhà văn Hoàng Công Khanh; “Cuộc thăng trầm” của nhà văn Minh Giang. Về sân khấu có thể kể: vở kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan” của Nguyễn Đình Thi; “Bí mật vườn Lệ Chi” của Hoàng Hữu Đản; “Oan khuất một thời” của NSƯT Lê Chức, đạo diễn NSND Doãn Hoàng Giang…
Với số lượng hàng triệu trang sách sử, không thể nói sử Việt Nam ít ghi chép nên gây khó khăn cho người sáng tạo. vấn đề là nằm ở niềm đam mê. Đôi khi những khoảng trống trong lịch sử lại “kích thích” trí tưởng tượng của nghệ sĩ bay bổng sáng tạo. Đến đây lại cần bàn đôi chút về sự hư cấu và sự thật lịch sử. Có những tác phẩm hư cấu “giải thiêng” thần tượng theo chiều hướng đời thường hóa để cho nhân vật gần gũi hơn, nhưng lại cũng có những tác phẩm giải thiêng để hạ bệ thần tượng. Xin ví dụ về việc hư cấu, đưa nhân vật lịch sử anh hùng của dân tộc như người thường, thậm chí có những câu chữ hạ thấp, miệt thị danh nhân trong truyện ngắn “Kiếm sắc”, “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp gây phản cảm cho người đọc.
Nếu như hư cấu và xây dựng nhân vật lịch sử trong những tác phẩm văn học có phần thuận lợi vì chỉ cần sự tưởng tượng của nhà văn thì trong tác phẩm điện ảnh, nhân vật và bối cảnh phải hiện lên mắt thấy, tai nghe được. Khi đó, ngoài vấn đề cốt truyện, trang phục, đạo cụ, bối cảnh thiên nhiên, kiến trúc nhà cửa của thời kỳ lịch sử đều được xây dựng một cách kỹ lưỡng. Đây là lực cản đối với tất cả các nhà làm phim trên thế giới. Để thực hiện được nhiều bộ phim lớn, người ta phải có trường quay. Trong điều kiện nghiên cứu về trang phục nước ta còn hạn chế, lại thêm phần không có trường quay chuyên nghiệp nên để thực hiện những bộ phim điện ảnh của thời gian đầu tìm tòi như “Đêm hội Long Trì” (đạo diễn Hải Ninh) rất giống phim sân khấu.
Gần đây, trong loạt phim lịch sử chào mừng 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, nếu để nói phim truyện nhựa thành công nhất theo ý kiến riêng của người viết là phim “Long thành cầm giả ca” (đạo diễn Đào Bá Sơn) sản xuất năm 2010. Kịch bản phim do Văn Lê viết trên cảm hứng về đại thi hào Nguyễn Du với tâm trạng và bối cảnh lịch sử tao loạn khi sáng tác bài “Long thành cầm giả ca”. Đó là khoảng thời gian 1813 -1814. Bối cảnh Thăng Long khi không còn là kinh đô đang bị rơi đi những vẻ đẹp. Và con người hiện lên trong phim không phải vua chúa mà là những trí thức đau đời, những nghệ sĩ mong manh như cô Cầm…
Việc sáng tạo hình tượng các danh nhân lịch sử trong sáng tạo điêu khắc cũng là điều cần bàn. Khi xã hội phát triển, nhiều đình, đền thờ các danh nhân đều muốn đúc hoặc tạc tượng thờ. Còn tại không gian đô thị, nhiều tượng danh nhân đã được dựng lên. Tượng vua Lý Thái Tổ ở khu vực Hồ Gươm là mẫu tượng tương đối thành công. Còn nhiều tượng danh nhân khác, nhà nghệ sĩ đều làm na ná như nhau: Tượng mắt nhìn xa xăm, tay cầm cuốn thư, tay nắm đốc kiếm…
Như vậy, lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật không hẳn là cái đã qua, cái không thể trở lại. Nó còn day dứt, thúc bách người nghệ sĩ sáng tạo mãi chừng nào con người trên trái đất còn tồn tại.
Theo Mạnh Thắng - ĐĐK
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.