VƯƠNG HỒNG
Ưng Bình Thúc Giạ Thị quê phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, sinh ngày 9 tháng 3 năm 1877, mất ngày 4 tháng 4 năm 1961. Ông là cháu nội Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ nổi tiếng với "Vỹ Dạ Hợp tập".
Ảnh: internet
Thân sinh của Ưng Bình là Tiểu thảo Hường Thiết. Với hàm Hiệp tá Đại học sĩ, Hường Thiết có nhiều sáng tác giá trị như: "Tứ tự ca" (viết về lịch sử Việt Nam kể từ thời Hồng Bàng); "Liên nghiệp hiên thi tập” (chữ Hán); "Vẽ một bản đồ nước Việt Nam” (từ thời Hồng Bàng đến năm 1900, bản mộc lưu tại Viện bảo tàng cách mạng, Hà Nội đã được công bố trong Bulletin des amis du vieux de Hué)
Thân mẫu Ưng Bình là bà Nguyễn Thị Huệ, thông thạo chữ Hán, có nhiều bài thơ nôm được truyền tụng như "Nhớ quê", "Thượng cầm hạ thú" (mỗi câu thơ đều có tên cầm và thú), "Xuất gia"...
Ưng Bình đỗ cử nhân hán học năm 1909; tốt nghiệp trường Quốc học Huế, am hiểu tường tận tiếng Pháp, đỗ đầu kỳ thi ký lục năm 1904. Giòng dõi "cành vàng lá ngọc", học hành đỗ đạt, ông ra làm quan, khi về hưu với hàm Thượng Thư, Hiệp Tá đại học sĩ. Tuy hưu trí, ông vẫn được cử làm Viện trưởng Viện Trung kỳ niên khóa 1939-1940, Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ Trung kỳ 1940-1945.
Làm quan suốt cả đời người nhưng Ưng Bình không màng danh lợi; Hơn thế nữa, ông sợ danh lợi, ghét nịnh hót, luồn cúi: "Ghét cụm bèo trôi che bóng nước, Giận chòm mây nổi khuất vành trăng"(1). Phẩm hàm, và chức tước của triều đình và Nhà nước Pháp bảo hộ ban cho, ông tỏ thái độ xem thường đến mức châm biếm. Thêm một chức tước đối với ông, giống như: "Hàng ghế nhích lên năm bảy tấc"; thăng một ngạch bậc quan trường chỉ là "Thẻ bài thêm lớn một vài ly”.
Làm quan, Ưng Bình chỉ giàu, rất giàu về bầu rượu túi thơ, câu hò điệu hát; đời sống vật chất lại khá thanh bạch: "Khoa danh có sẵn, quan quyền có; Của cải không gì, ruộng đất không". Coi thường, khinh ghét danh lợi nhưng phải làm quan. Cho nên, khi được về hưu, Ưng Bình xem như là một hạnh phúc vì "Lưng tôm khỏi phải cúi lòn". Với khí tiết đó, ông lại nhìn đời quan trường của mình mà rất đỗi tự hào: "...Thuở ra sân khấu không làm rộn, Khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi".
Những năm ở quan trường, trị nhậm nhiều nơi, có dịp đi đây đi đó, giao du rộng, cảnh quan đất nước trải mở dưới tầm mắt, sáng tác của Ưng Bình theo đó mà phát triển. Thể loại bao trùm là thơ cổ, xướng họa xoay quanh một chữ TÌNH: Tình nước non, tình người, tình bằng hữu thâm giao... Thời gian về hưu rỗi rảnh, mối quan hệ giữa nhà thơ với sinh hoạt dân gian có điều kiện gắn bó, nên bên cạnh thơ cổ, Ưng Bình phát triển mạnh sáng tác các thể loại hò ca, xướng hát. Đây cũng là thời kỳ nhà thơ tiếp xúc sâu với văn học dân gian, đồng thời nhiều sáng tác của nhà thơ được nhân dân lao động tiếp nhận, trở thành văn học dân gian.
Sự nghiệp sáng tác thơ ca của Ưng Bình rất phong phú, được lưu truyền khá rộng rãi. Về chữ Việt có trên 1000 bài, thơ chữ Hán có "Lộc Minh thi tập" gồm 227 bài; hát bộ có vở tuồng "Lộ Địch" dựa một phần theo cốt truyện Le Cid của nhà văn Pháp P.Corneille, được công diễn nhiều lần trong những năm 1937-1938, vở tuồng "Tào Lao" lấy cốt truyện cổ. Thơ ca, tuồng của ông, một số đã được xuất bản gồm Tình Thúc Giạ (1942); Đời Thúc Giạ (1961); Bán buồn mua vui (1954); Lộ Địch (xuất bản lần đầu năm 1936 - tái bản năm 1959). Tiếng Hát Sông Hương (1972).
Thơ ca của Ưng Bình có giá trị nhiều mặt về nội dung tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Qua những bài như Vịnh hòn non bộ, Đêm trung thu thăm lầu ông Hoàng, Chim khóc tổ, Cơm độc lập nước tự do, Bản đồ nước Việt Nam, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Phan Thanh Giản, Phu xe đối đáp, Cám cảnh người hành khất, Ngày xuân ở Vỹ Dạ, qua những bài đề vịnh danh lam thắng cảnh(2), Ưng Bình Thúc Giạ Thị tỏ rõ một tấm lòng đối với non sông đất nước, đối với dân nghèo thật đáng quý trọng.
Thơ ca của Ưng Bình nhìn chung phóng khoáng, tao nhã, hàm súc, hồn nhiên; một số bài, nhất là thơ chữ Hán, khá điêu luyện, ý và tứ thơ phảng phất hồn thơ thịnh Đường.
Thơ ca của Ưng Bình Thúc Giạ Thị có nhiều bài, nhất là những câu hò, điệu hát đã đi vào sinh hoạt của nhân dân xứ Huế từ mấy chục năm nay một cách thâm trầm, bền vững. Nội dung của những câu hò điệu hát đó được thể hiện bằng thứ văn chương bình dân, theo ngôn từ của nhân dân lao động, nhiều bài, nhiều câu đã khái quát hóa cuộc sống lao động, sản xuất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ đến cao độ được nhân dân tiếp nhận và truyền khẩu, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được của chị chèo đò, anh cầm chày giã gạo hoặc của khách du lịch đêm trăng vui chơi giải trí bằng thuyền trên dòng sông Hương đầy thơ mộng.
Mặt khác, Ưng Bình đã khéo vận dụng ca dao, tìm thi hứng từ văn học dân gian để sáng tác thơ ca. Với hai câu: "Lu ly nửa nước nửa dầu, Nửa thương cha mẹ nửa sầu nhơn duyên", ông đã làm bài thơ cổ động dùng hàng nội hóa; với câu ca dao: "Cua nói có, vọ nói không, cơ chi có miểu giữa đồng, Hai ta thề thốt kẻo lòng ngại nghi", ông đã làm bài thơ "Nói nên dạ ở không nên..."; từ câu ca dao: "Rồi mùa toóc rả rơm khô, Bạn về quê bạn biết mô mà tìm", ông đã làm nên bài thơ với những câu đầy tình tứ: "Kẻ đi người ở gây thương nhớ, Mông quạnh đồng không gẫm chán chê".
Ưng Bình còn rất sành, quý trọng và say mê ca nhạc dân tộc, nhất là về ca Huế, tuồng, nhiều làn điệu dân ca của cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Đối với dân ca miền Bắc, ông đánh giá:
"Cô đào Thanh thật sành nghề hát nói,
Cô đào Nghệ khéo kể khúc tỳ bà,
Chốn Long Biên đủ điệu huyền ca,
Cô đào tơ hát giỏi, chị đào già vẫn hay".
Đối với dân ca miền Trung, nơi Ưng Bình đặt tất cả tâm hồn và gắn bó cuộc đời hào hoa phong nhã của mình, ông tán dương:
"Điệu hát dễ dàng là điệu hò khoan xứ Huế,
Không pha tiếng quyển, không nệ tiếng đàn,
Miễn làm sao giọng hát du dương,
Tình kia nghĩa nọ đôi đường phân minh"
Đối với dân ca miền Nam, nhiều người đương thời đã bài xích điệu cải lương, còn ông lại tán thưởng đề cao:
"Khổng Minh tọa lầu là câu ca cổ bản,
Bạch Vân Tôn cát là điệu hát ngày xưa,
Bạn cải lương ra rạp đến giờ,
Nhạc Âu văn Á đổi cuộc cờ thêm vui."
Đối với các nghệ nhân, ông nhìn họ với tất cả tấm lòng ái mộ chân thành, rất mực tôn trọng. Nhiều bài thơ ca tặng nghệ nhân hoặc làm tại chỗ cho nghệ nhân trình bày, ông đã viết với bao lời hay, ý đẹp.
Thật ít có nhà thơ nào hiểu rõ, đề cao dân ca và ca sĩ dân gian như Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Ông xứng đáng với danh hiệu thi hào - nghệ sĩ mà người đời mến tặng.
Huế, Xuân Nhâm Thân
V.H
(TCSH48/03&4-1992)
-----------------
1. Những câu ngoặc kép trong bài này được trích từ Tuyển tập thơ ca Ưng Bình Thúc Giạ Thị, 450 trang, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1992 (đang ấn hành)
2. Xem “Ưng Bình Thúc Giạ Thị”: Thơ ca. Nhà xuất bản Thuận hóa, 450 trang, Huế, 1992.
BÙI NGUYÊN
Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
1.
Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ - thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)
TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG
Tư tưởng văn học của Tản Đà (1889 - 1939) không thuần nhất mà là sự hỗn dung của “tư tưởng Nho gia, tư tưởng Lão Trang và tư tưởng tư sản”1.
MỘC MIÊN (*)
Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.
(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)
Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.
BÙI KIM CHI
“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).
TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI
Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.
NGUYỄN THẾ QUANG
Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.
NGUYỄN HỮU SƠN
Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.
NGUYỄN THỊ THANH LƯU
Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.