Khi hội làng Đông Hồ vắng tranh dân gian

09:55 17/04/2017

Làng Đông Hồ (xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) vốn nổi danh với nghề làm tranh dân gian, nhưng nay do nhu cầu đời sống mà hầu hết người dân chuyển sang làm vàng mã.

Một nghi lễ tại đình làng Đông Hồ

Gần đây, tôi có dịp đến xã Song Hồ để dự lễ hội làng Đông Hồ. Tới sân đình làng, thấy những người phụ nữ mặc áo dài đang thực hiện một nghi thức của lễ hội. Tiến vào phía trong, một số du khách trầm trồ khi thấy những đồ mã có kích cỡ “khủng” là con ngựa và chiếc thuyền được đặt ở vị trí dễ quan sát. Trong đình, có khá nhiều đồ vàng mã, từ những vật phẩm được làm rất tinh xảo như cây vàng, cây bạc đến các đồ vàng mã thông dụng để cúng lễ.

Từ đầu tháng 3, người dân làng Đông Hồ bắt đầu làm những sản phẩm vàng mã để trưng bày tại lễ hội. Lễ hội của làng thường được tổ chức trong ba ngày 14, 15 và 16 tháng Ba âm lịch. Chuẩn bị cho lễ hội, mỗi dòng họ được phân công làm một vật phẩm. Quá trình làm vật phẩm là dịp để các dòng họ quây quần bên nhau, chia sẻ với nhau những điều thường nhật trong cuộc sống đến công việc làm ăn, buôn bán.

Trong nhà của những người dân của làng tranh dân gian bây giờ đầy đủ các nguyên liệu làm mã, từ giấy bìa, giấy màu, phẩm, hồ đến các khung hình bằng tre, nứa để làm ra các loại vàng mã theo yêu cầu. Họ quan niệm, quanh năm làm vàng mã cho khách, vậy những ngày lễ hội của làng càng cần làm những vật phẩm đẹp để tạo sự may mắn. Nhờ sự đầu tư công sức lẫn tinh thần của người dân làng tranh, những vật phẩm được đem trưng bày tại lễ hội luôn hài hòa, đẹp mắt.

Tuy nhiên, tại lễ hội lần này không thấy trưng bày tranh Đông Hồ. Khi được hỏi điều này, một người dân chỉ vào căn nhà cạnh đình làng cho biết đó là nơi trước đây treo tranh Đông Hồ vào dịp lễ hội. Nhưng khoảng chục năm gần đây, tranh Đông Hồ ít được trưng bày nên căn nhà kia chủ yếu sử dụng vào việc khác. Lễ hội bây giờ tập trung vào đồ mã. Khi mãn hội vào 16/3 âm lịch, những đồ mã trưng bày được hóa với lời cầu ước một năm thuận hòa, no đủ.

Khi hội làng Đông Hồ vắng tranh dân gian ảnh 1
Con ngựa mã với kích cỡ “khủng”. Ảnh: Kiến Nghĩa.

Trước đây, tại làng tranh Đông Hồ, nghề làm tranh và vàng mã thường đồng hành cùng nhau. Hằng năm, từ tháng 3 đến tháng 7 người dân làm đồ vàng mã, còn từ tháng 8 đến tháng 12 âm lịch làm tranh. Nhưng nay do nhu cầu đời sống, hơn 90% hộ dân làng Hồ chuyển sang làm đồ vàng mã, còn nghề làm tranh dân gian cứ ít dần. Hiện trong làng chỉ còn vài gia đình theo đuổi nghề tranh như nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh để phục vụ chủ yếu khách tham quan và người nước ngoài.

Bà Nguyễn Thị Oanh, nữ nghệ nhân đầu tiên của làng tranh Đông Hồ cho biết: Trước đây, vào dịp lễ hội người dân thường mang một số bức tranh truyền thống như: Đàn gà, Đàn lợn, vinh hoa phú quý… để treo tại đình. Tuy nhiên, những năm gần đây lễ hội phát triển nên đình làng trở nên chật chội hơn, trong khi người dân đến đây chủ yếu làm lễ nên không treo tranh nữa.

“Những ngày lễ hội, du khách tới đây muốn xem tranh Đông Hồ thì có thể đến nhà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nhà tôi hoặc một số gia đình khác nữa để tham quan”- nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh cho biết. Rồi bà chia sẻ thêm: “Tôi được biết, hiện nay cấp có trách nhiệm đang có kế hoạch mở rộng đình làng, qua đó sẽ có nơi để trưng bày tranh. Khi đó, tranh dân gian sẽ trở lại trong mỗi dịp lễ hội”.

Tuy bị yếm thế so với đồ vàng mã trong đời sống thường ngày, nhưng trong tiềm thức của người dân làng Hồ, tranh dân gian là một giá trị không thể thiếu. Gần đây, nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã phối hợp với UBND huyện Thuận Thành xây dựng Trung tâm lưu giữ, bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ tại xã Song Hồ.

Cùng với việc xây dựng Trung tâm, nghệ nhân cũng là người sở hữu nhiều bản khắc cổ quý giá, sưu tầm nhiều tài liệu để biên soạn sách, xuất bản song ngữ Anh -Việt nhằm giới thiệu những giá trị đặc sắc của dòng tranh dân gian Đông Hồ tới công chúng trong và ngoài nước.

Theo Kiến Nghĩa - TP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.