LÊ AN PHƯƠNG
Ngay từ thời sơ khai, con người ý thức về sự tồn tại vật chất - bản - thân - mình: có hai con người - linh hồn và thể xác. Con người thể xác có thể chết, nhưng con người linh hồn sẽ sống mãi!
Ảnh: internet
Con người sống, được gắn bó với cộng đồng không chỉ gồm có những bản - thân - con - người - mà sự liên hệ của nó hàm chứa cả thế giới xung quanh: Vũ trụ như trời, đất, mây, mưa, mặt trăng, mặt trời... Thiên nhiên như núi, sông, rừng, biển ... sinh vật như chim muông, tôm cá, gạo thóc... và một đối tượng nữa là : Cõi - hư - vô - linh - hồn !
Người cổ xưa, quan niệm không chỉ có con người mới có linh hồn, mà linh hồn nằm trong mọi vật thể ! Linh hồn luôn tác động vào cuộc sống hiện hữu. Ví dụ như các thần - linh - cao - cả luôn giúp cho cộng đồng sinh sôi nảy nở. Còn những thần linh "ma" luôn ám ảnh, tác oai, tác quái khiến ruộng nương thất bát, cộng đồng dịch bệnh...
Con người vốn nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ - nhờ vào thiên nhiên, vũ trụ mà con người được sống. Sự biết ơn, hướng thượng tới các vị thần linh cứ hình thành dần trong đời sống tinh thần con người. Ý thức mong cầu cuộc sống sinh sôi nảy nở, no ấm, hạnh phúc là niềm tin mãnh liệt vào sự trợ giúp cao đẹp của các thần linh siêu việt. Sự tác động qua lại giữa thiên nhiên và con người thường nhật, làm cho con người nhận rõ vai trò của mình trong đời sống. Các cuộc chiêm nghiệm, khám phá mới luôn nảy sinh nơi tri thức con người trong quá trình : sinh ra - trưởng thành - đấu tranh tồn tại và sự chết của đời một con người. Tựu trung sự hướng thượng, cầu mong thần linh chở che cho quá trình vòng quay bất biến của con người như một hằng số tự nhiên ! Sự cầu mong mới đầu như những cử chỉ ứng xử xã hội của con người trước các đấng thần linh, nhưng dần sau, đời sống no đủ, văn minh, con người gia tăng về tinh thần, cũng như vật chất cho sự biết ơn sâu sắc ! Lễ hội hình thành tất nhiên như cuộc sống thường nhật con người, như cơm ăn, nước uống ! Đứa trẻ ra đời góp thêm cho cộng đồng một con người, làm cho cộng đồng thêm sức mạnh, lẽ nào không cầu mong những thần linh chở che cho chúng được vẹn toàn! Và lễ nghi mừng đứa trẻ sơ sinh như một niềm hân hoan của đôi lứa và của cả bản làng, của cả núi rừng, thiên nhiên và vũ trụ!
Con người lớn lên - hôn nhân là một cột mốc, đánh dấu bước trưởng thành, khẳng định sự khỏe khoắn mà con người đã đạt được, sẽ góp cho cuộc sống sinh sôi, phồn thực.
Cộng đồng phải sống và phải đấu tranh tồn tại; lễ nghi vào mùa, săn bắt bao giờ cũng là niềm hân hoan vô bờ của con người. Thực tế, con người hiện tồn không chỉ trông vào ý nghĩa mong cầu Thượng đế, mà ngược lại, con người luôn tự tin vào sức mạnh của chính mình, củng cố ý chí tự cường trong cuộc đấu tranh sinh tồn xã hội!
Và cuối cùng, con người phải chết! - Lễ nghi tiễn đưa sự chết xem như đánh dấu để khẳng định vòng đời con người đã chấm hết và được về với tổ tiên. Cộng đồng ca hát, nhảy múa trước cái chết, không phải biểu thị sự tiêu vong mà là sự hội tụ giữa cõi chết - linh hồn - cuộc sống làm thành một vòng quay bất diệt của con người. Và cũng vì lẽ ấy mà con người sống, yêu thương, chiến đấu, và biết ơn thánh linh, trời đất.
Hội lễ dân tộc là nhu cầu về ý tưởng của nhân dân sẽ khó phai mờ. Hoặc chỉ có thể thay đổi, biến dạng về hình thức - một khi loài người văn minh dần lên. Ta có thể thấy rõ một quá trình chuyển tiếp các hội lễ dân tộc cổ xưa của tộc người Lạc - Việt, thì thấy những bước thay đổi rõ nét, mà vẫn không mất đi bản chất sinh thần của lễ hội. Ví như: Ngày hội vào mùa của các dân tộc Việt Nam đều nở rộ từ tháng giêng đến tháng ba. Người ta cầu mong cho hạnh phúc, cây cối được mùa, đơm hoa kết trái, làm ăn thịnh vượng. Lễ cúng thành hoàng làng, hay những bà chúa, có công dạy giỗ cho dân làm nghề nông, nghề thợ; ngưỡng vọng ông bà, tổ tiên đã sinh thành gia tộc đầy đàn con cháu; lễ rước lớn lao các vị thánh nhân có công đánh giặc, giữ làng, giữ nước... Nhiều biểu hiện giao tiếp xã hội trong hội lễ + nhằm phô diễn sức mạnh, nghề nghiệp tài hoa, trai tài, gái giỏi... Sự phô diễn đến như không tiếc người, tiếc của để được thỏa mãn tinh thần, để được sống trọn vẹn. Ví như một người dân, thường ngày còn thiếu ăn, nhưng vẫn sẵn sàng đội gạo, góp thêm xôi, chuối để cúng thành hoàng làng. Một quả pháo ở Đồng Kỵ (Bắc Ninh), một giàn pháo ở Bình Đà (Hà Tây) tốn kém hàng vài chỉ vàng ... nhưng nhiều gia đình đã tự phô diễn trong ngày hội pháo đầu xuân ! Không ai tiếc - và rất dở, nếu cho đó là lãng phí - bởi đó là nhu cầu thăng hoa sau mỗi ngày hội lễ của làng ! Không có gì mất đi một khi tinh thần được giải phóng ! Được tự do thoải mái ! Được thỏa sức phóng túng lòng mình với bao ngày tháng cần lao, giữ gìn, ý tứ trước những ràng buộc, o bế, khổ đau !... Người dân làng chài chỉ có thể yên tâm làm ăn sau mỗi lần hội lễ cúng cá ông ! Người dân chài sẵn sàng nghỉ việc, đóng góp tiền bạc, vật lễ, làm hoa, kết thuyền thắp nhiều đèn nhang rực rỡ... rồi vượt sông ra biển. Họ tế lễ, họ chèo thuyền, hát bội ở biển khơi. Và sau đó được yên lòng bởi bao tháng ngày khổ đau trong các cuộc hành trình đánh bắt cá tôm. Niềm tin của họ được thăng hoa, phấn chấn bởi đức tin bất diệt về sự trợ giúp của cá ông ! Họ vững tay chèo và mạnh tay quăng lưới ! Sóng cả không thể dập vùi thuyền bè của họ !...
Sự còn lại khó quên là lễ hội ở vùng cao Tây nguyên. Người Gia Rai, Ê đê, Cơ tu... còn giữ lại truyền thống cổ xưa về những hình thức hội lễ nhằm vào tinh thần thượng võ của mình ! Những lễ thức đan xen với nhảy múa, ca hát mang nặng tình yêu đan quyện vào nhau giữa một bên là con người và một bên là vũ trụ xung quanh. Lễ hội đâm trâu như một vũ điệu đầy chất hoành tráng miêu tả bức tranh rộng lớn về sức mạnh con người và con người luôn luôn chiến thắng ! Lễ mừng đứa trẻ ra đời với người Ê đê, Gia rai, được mở tiệc nhảy múa với những nhạc điệu cồng chiêng thật rầm rộ và nồng nhiệt đầy tính cộng đồng. Với tính chất ấy, ngược lại ở người Kinh, bây giờ chỉ còn lại mờ nhạt, là kỷ niệm một ngày sinh nhật riêng tư, nhỏ bé ! Ngày lễ trưởng thành với tục cưới gả thật đáng tự hào đối với bản làng bởi có thêm sức mạnh hoàn chỉnh của đôi trai gái tham gia vào công cuộc săn bắt, hái lượm, chống lại những khắc nghiệt thiên nhiên. Còn ở miền xuôi, nay chỉ còn là một lễ nghi gia đình, phô diễn tiêu xài, ăn uống và... chụp nhiều kiểu ảnh ! Và khi chết - lễ nghi cao quý của các dân tộc trên cao nguyên còn rực rỡ về sự tiễn đưa cha mẹ được về với tổ tiên, được hoàn tất phận sự với cộng đồng, và bằng những cảnh ca hát, nhảy múa ân nghĩa, cồng chiêng sôi động núi rừng... Còn ở miền đồng bằng, ngược lại, đám tang là một ngày sướt mướt, ủy mỵ lòng thương nhớ, báo hiệu một con người vĩnh viễn ra đi.
Cũng có thể nói thêm về những hội lễ tôn giáo, hoặc có nhuốm màu tôn giáo - mới đầu, thực chất là tinh thần cảm kích trước các vị thánh nhân có thật; sau đó, là những lời truyền tụng, rao giảng giống như huyền thoại, thần bí đầy tính áp đặt, thiếu đi một tinh thần hướng thượng cao siêu, tuyệt mỹ đầy tính chất hiện thực và nhân văn con người ! Lễ hội kiểu đó, còn có thể hấp dẫn hơn, đầy tính thuyết phục hơn - nếu như, hình thức lễ nghi được trở về với cội nguồn của một tinh thần lễ hội dân tộc xa xưa của sự sáng tạo.
Văn - hóa - hội - lễ của con người!
Đây đó, mỗi nơi, mỗi vẻ, nhưng nhất thiết hội lễ là một nhu cầu tinh thần đầy tính nhân văn cao cả của con người - có thể nói bất diệt trong đời sống tinh thần của nhân dân !
Có thể bàn đến hội lễ dân tộc, xem như một yếu tố văn minh trong bất kể một nền dân chủ nào của những quan hệ con người!
L.A.P
(TCSH49/05&6-1992)
NGUYỄN HỮU THÔNG (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.
NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.
TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.
TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).
LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời với thiết chế bản mường chặt chẽ.
TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.
PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.
LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.
TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...
NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.
NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.
NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.
LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.
TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.