Hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi

16:04 10/12/2010
ĐINH XUÂN LÂM - VÕ VĂN SẠCHTrong khi khai thác tư liệu về phong trào đấu tranh yêu nước chống xâm lược Pháp hồi cuối thế kỷ XIX của nhân dân ta tại Cục lưu trữ Trung ương, chúng tôi có tìm được hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi ban cho các quân thứ Bắc kỳ.

Cổng và tượng Vua Hàm Nghi năm 1975 - Ảnh: hamnghihue.com

Hai bài thơ nôm này nằm trong hồ sơ tập 7 Phông Nha kinh lược Bắc kỳ, kho lưu trữ Trung ương Hà Nội, ghi rõ: “Ngự bút tự trào quốc âm nhị thư ban Bắc kỳ chư thứ”.

Nhắc lại rằng vào đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5 tháng 7 năm 1885, ngay tại trung tâm kinh thành Huế đã xảy ra một sự biến lịch sử kịch liệt: lực lượng yêu nước chống Pháp trong triều đình do Tôn Thất Thuyết cầm đầu tấn công vào các căn cứ chiếm đóng của giặc Pháp ở hai bên bờ sông Hương là tòa khâm sứ và đồn Mang Cá.

Cuộc tấn công thất bại, kinh thành bị chiếm, Tôn Thất Thuyết phải rước vua Hàm Nghi chạy ra Bắc. Để thoát khỏi bàn tay giặc và xây dựng cơ sở kháng chiến lâu dài về sau.

Về Hàm Nghi, chúng ta biết rằng ông được đặt lên ngôi vua từ ngày 2-8-1884 sau khi ba vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc lần lượt bị phế bỏ vì có hành động thân Pháp. Ông sinh ngày 3-8-1871, lúc lên ngôi mới có 14 tuổi. Sau khi được Tôn Thất Thuyết đưa ra phía Bắc, ông đã ra Chiếu Cần Vương (13-7-1885), kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đánh giặc. Lời chiếu đã được sự hưởng ứng nhiệt liệt và mạnh mẽ trong toàn quốc, gây cho kẻ thù muôn vàn nguy khốn. Nhưng đến tháng 11-1888, có bọn tay sai dẫn đường giặc Pháp đã đột nhập căn cứ và bắt sống Hàm Nghi tại miền núi Quảng Bình, rồi đưa xuống tàu chở đi đày ở An-giê-ri (Bắc Phi).

Hai bài thơ nôm mới sưu tầm được, nếu đích thực là của vua Hàm Nghi thì chỉ có thể được sáng tác vào giữa hai năm 1887-1888, trước ông bị bắt. Lúc này nhà vua đã 16-17 tuổi, và trải qua mấy năm trèo đèo lội suối gian khổ kháng chiến đã trưởng thành về tư tưởng, giờ đây đã trở nên một thanh niên có tinh thần yêu nước căm thù giặc và có ý thức về vai trò của mình trong phong trào, đối với nước, đối với dân. Cũng không loại trừ khả năng hai bài thơ trên do một người lấy danh nghĩa Hàm Nghi để làm, hiện tượng này rất phổ biến trong văn học. Trong khi chờ đợi xác minh thêm, chúng tôi căn cứ vào sự ghi chép theo tài liệu lưu trữ để giới thiệu với bạn đọc Tạp chí Sông Hương

Bút tích hai bài thơ nôm của vua Hàm Nghi



Bài thứ nhất

Ôi việc trên đời nghĩ cũng hay,
Sơn hà xã tắc nắm trong tay
Hai hàng mũ áo (1) mong mong Trước
Bốn phía cày bừa nhớ nhớ nay (2)

Tôn tổ vun trồng đà có tớ,
Đất trời ngang dọc ngẫm từ đây
Xoay vần con tạo xem chăng tá?
Quét sạch tanh hôi có mặt này (3)



Bài thứ hai

Nhủ bảo quân dân cập lại quan
Thứ cho tội trẫm đã muôn vàn
Ngôi cao kịp tới liền lo nghĩ,
Tuổi trẻ nhưng nay luôn thở than
Vạch đất ra tay tề xã tắc
Xin trời mở mặt với giang san
Bốn phương đâu để theo dòng cũ
Trung nịnh rồi ra sẽ liệu bàn.


Đ.X.L - V.V.S.
(8/8-84)


-----------------
1. Các quan lại trong triều
2. Nông dân.
3. Giặc Pháp xâm lược.




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

  • NGUYỄN DƯ

    Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!

  • NGUYỄN VĂN SƯỚNG

    Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.

  • TRUNG TRUNG ĐỈNH

    Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.

  • LIỄU TRẦN

    Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).

  • HOÀNG THỤY ANH    

    Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.

  • DO YÊN     

    Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.

  • TRẦN HOÀNG

    (Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
    Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)

  • LÊ KHAI

    "Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.

  • NGUYÊN HƯƠNG    

    1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG

    Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BA   

    Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).

  • ĐỖ LAI THÚY

    Tôi có trên tay cuốn Tôi về tôi đứng ngẩn ngơ (tập thơ - tranh, Sách đẹp Quán văn, 2014) và Đi vào cõi tạo hình (tập biên khảo, Văn Mới, California, 2015) của Đinh Cường.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Đọc Chim phương Nam, tạp bút của Trần Bảo Định, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM, 2017).

  • HỒ TẤT ĐĂNG

    "Từ trong sâu thẳm tâm hồn mình, tôi bỗng nhận ra rằng, cũng như bao người khác, cả gia đình tôi đã góp máu để làm nên cuộc sống hôm nay, nếu còn tồn tại điều gì chưa thỏa đáng, chính bản thân tôi cũng có một phần trách nhiệm trong đó.” (Phạm Phú Phong).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Có những thời đại lịch sử nóng bỏng riết róng, đặt những con người có tầm vóc, có lương tri và nhân cách luôn đứng trước những ngã ba đường, buộc phải có sự chọn lựa, không phải sự nhận đường một cách mơ hồ, thụ động mà là sự chọn lựa quyết liệt mang tính tất yếu và ý nghĩa sống còn của tiến trình lịch sử và số phận của những con người sống có mục đích lý tưởng, có độ dư về phẩm chất làm người.