NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi niềm đau đáu về quê hương, nơi mình được sinh ra và chắt chiu nuôi dưỡng trong từng hạt cát, từng trận mưa dầm dề thúi trời thúi đất hay nắng lửa trên cồn khô cát cháy, mà những con người ở đây sẵn mang một tấm lòng lồng lộng gió trời trải đi khắp muôn phương...
Những con người bên kia phá Tam Giang lớn lên trong ăm ắp kỷ niệm mến thương, lớn lên trong khốn khó của một thời lịch sử, để một mai kia, hành trang vào đời mộc mạc chỉ là một tâm hồn lồng lộng nắng gió miền cát biển nhưng đã trải khắp muôn phương với niềm tự hào trong trẻo như giọt sương mai đầu hạ.
Người từ các nẻo trên mảnh đất Thừa Thiên, một mai khi lạc xứ, tự nhiên được người ta gọi một tên chung thật dễ thương và cũng thật “dễ ghét”: Dân Huế, người Huế. Cũng có sao đâu bởi từ muôn nẻo ấy, họ đã tìm nhau, gặp nhau để thổ lộ một nỗi niềm riêng chung: Nhớ Huế! Có lẽ, bởi cái niềm thương đau đáu ấy mà bà con nhà “miềng” luôn ao ước được xích gần nhau hơn, được nghe lại tiếng quê miềng ròng, không lai tạp, được dành dụm gởi gắm một chút tình về nơi quê hương một thời ôm ấp nuôi dưỡng thành người như sự tỏ lòng biết ơn không bao giờ nói hết.
Người đã xa quê hương vài chục năm mang theo nhiều hoài niệm. Hoài niệm riêng tư không biết tỏ cùng ai, hoài niệm chung chạ về một miền quê tháng ngày oằn mình chống đỡ thiên nhiên khắc nghiệt, hoài niệm về những con người đã nếm trải một thời khốn khó mà quá đỗi thân thương.
Là kẻ đã sống nhiều năm trong cái nắng nhễ nhại của phố thị hay cái nắng hoang vu nơi các miền hải ngoại, đều đã có thật nhiều hôm vọng day dứt nỗi niềm cái nắng nơi quê nhà. Nắng dát vàng bên miền cồn cát, nắng đong đưa điệu ru hời trong giấc ban trưa từng ngõ xóm, nắng khét mái tóc học trò trên từng con đường cát dài tới lớp, nắng chạy lò cò với bước chân con gái trên trảng cát ngập tràn màu nắng trắng, nắng thơm thơm từng chẹn lúa tháng năm, nắng quện vàng trên vai nặng mồ hôi Mạ qua những cồn cát dài trong chiều muộn, và nắng chang chang bến đò ngày chờ em tôi qua phá trong chiếc áo cưới đã phôi pha...
Bước qua những ngày đông dài lê thê lạnh lẽo, những ngày mưa thúi đất thúi trời Thừa Thiên với cùng con nước dập dềnh dọa nạt. Bước qua ngày Mạ tôi còng lưng bên luống mạ ngày giáp xuân, bước qua tiếng gió rú dài than phiền trong đêm qua các ruồng tre già bên xóm cũ, để mà chạnh nhớ bếp lửa tàn chiều hôm khi nghe tiếng con uệnh oạng xa vắng ngoài truông.
Không phải vô cớ mà tôi chợt nghĩ về câu “về tới quê hương mà nhớ quê hương” của Baso, một vị thiền sư người Nhật, cũng không phải vô cớ mà ở một nơi tha hương kia, bất chợt nghe một giọng nam ai mà mình muốn xích lại gần nhau, trên đôi môi khô héo vì thời gian kia vẫn muốn chợt nở với nhau một nụ cười khả ái…
Điền Hải sáng nay chợt hửng lên làn nắng ấm, nắng nhăn nheo cười trong khóe mắt của mệ tui đang thảnh thơi bỏm bẻm nhai trầu nhìn con cháu, nắng hòa lúng liếng trong mùi hương trầm trong không gian nhà thờ làng Thế Chí Đông đang lên màu rêu phong cổ kính. Nắng lại về trong đôi mắt em tôi giữa ngập ngụa bụi đường phố thị bỗng “chộ” nhau một thoáng. Đôi mắt ướt bỗng mơ màng nhớ về Tam Giang với ngút ngàn cồn cát ấy một chiều ba mươi, nhớ về một cánh cò bay phía cuối trời xa xa vẫn mong có một lần trở về trong trái tim bật khóc. Người đã qua bao năm tháng xa quê lạc xứ một chiều hôm nhìn những cánh mai vàng nở vội giữa dòng đời tất bật mà chợt thắt lòng với quê hương.
Về lại quê hương trong nhiều cái đổi thay được, mất. Người xa quê có tuổi luôn chạnh nhớ về những khốn khó của năm xưa mà lưu luyến, người ta vẫn chạnh so sánh với cái quê hương thứ hai đã nặng lòng cưu mang trên bước đường lạc xứ ấy, có lẽ về quê hương mà vẫn còn nhớ đến quê hương là thế.
- Bữa mô mi về thăm nhà rứa hỉ?
Lặng nghe một tiếng trọ trẹ của quê mình trong quán khách mà như lạ như quen. Kẻ dứt lòng hay đang đậu lòng ở lại với quê hương vẫn không thể không nao nao bước chân đi, về quê mình trong trĩu nặng.
Phong Thái Am, 2012
N.M.Q
(SH288/02-13)
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).
TRẦN THỊ KIÊN TRINH
Mùa hè năm nay tôi có dịp trở lại Sài Gòn. Thành phố với bao đổi thay nhưng tôi chưa kịp nhận thấy hết bởi thời gian tôi lưu lại Sài Gòn quá ngắn ngủi.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cũng lạ cho cái xứ Huế của tôi, cái chi cũng khác hơn thiên hạ. Nắng thì nắng cháy da phỏng trán, mưa thì mưa thúi đất thúi đai, dầm dề không dứt. Vài ba năm lại một trận lụt, trận bão to đùng.
BÙI KIM CHI
“Tháng 7 nước nhảy lên bờ”. Mà lên bờ thiệt. Mưa. Mưa. Mưa… kéo dài lê thê. Lúc đầu nhỏ sau lớn dần. Nặng hạt. Xối xả. Cây cối trong vườn ngả nghiêng theo mưa và gió. Cây Lựu trước sân nhà tôi tơi tả. Trời tối dần. Mưa càng lúc càng to. Ào ào như thác đổ. Mưa suốt đêm. Sấm đất cuốn vào mưa. Ầm ầm. Ào ào. Âm thanh rộn rã…
Khi những giọt mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về, làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lặng trong lòng sông Hương, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ. Đó cũng là thời khắc mùa Vu lan đang về trên đất trời cố đô.
Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.
LTS: Tác giả của câu chuyện dưới đây, sinh ra và lớn lên ở làng quê Triều Sơn Nam, xã Hương Vinh, Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Anh sinh ra trong sự oan nghiệt khủng khiếp của cuộc sống khi buổi sáng mẹ anh quằn quại nghe tin đau xé mất chồng, buổi chiều mẹ đón nhận tiếng khóc chào đời của anh.
NGUYỄN LỆ BA
Gia phả họ Nguyễn Quang ghi chép, tổ tiên chúng tôi là những người đã ra đi từ đất Huế. Thuở dong buồm về phương Nam đi tìm đất mới, những lưu dân đầu tiên đến dựng làng lập ấp trên vùng sông nước quê tôi chỉ vỏn vẹn vài dòng họ với đôi ba chục con người.
BÙI KIM CHI
Đã có một lần tôi được trở về thăm Huế vào một mùa trăng. Cảnh vật thiên nhiên trời ban riêng cho Huế làm Huế duyên dáng và đẹp lạ lùng vào những đêm trăng. Trăng Huế vì thế mà có nét đẹp rất riêng, là lạ, duyên dáng, lộng lẫy và quyến rũ trong phong cảnh vừa thơ, vừa duyên và lãng mạn của trời đất Huế về đêm.
NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN
NGUYỄN BỘI NHIÊN
Một nam sinh như tôi lại học trường nữ trung học Đồng Khánh (trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay), có thể một số người cho đó là chuyện lạ đời. Nhưng đấy lại là sự thật 100%! Tuy tôi chỉ học ở trường Đồng Khánh một năm lớp năm bậc tiểu học (bây giờ là lớp 1) vào khoảng những năm cuối thập kỷ 40 đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Nhưng không hiểu tại sao tôi lại còn nhớ nhiều những kỷ niệm về năm học đầu đời ấy mãi tới tận bây giờ.
TRIỆU BÔN
Hồi ký
Mùa mưa năm 1968 ở mặt trận đường Chín - Khe Sanh, trung đoàn 246 chúng tôi được gọi đùa là trung đoàn hai bốn đói. Ngày ngày chúng tôi sống bằng ba nguồn chính: thịt thú rừng, rau môn thục, và đỗ xanh.
BÙI KIM CHI
Tôi đang đứng ở đây. Bến xe đò Đông Ba của thế kỷ trước. Bùi ngùi. Xúc động. Bến xe đã không còn. Thật buồn khi nơi này đã vắng bóng những chiếc xe đò dân dã, thân thương thuở ấy cùng những tà áo trắng học trò dung dị với giọng Huế trong trẻo ơi ới gọi nhau lên xe kẻo trễ giờ học.
NGUYỄN VĂN UÔNG
Tùy bút
Tuổi càng cao càng có nhiều nỗi nhớ vu vơ. Tôi đang trong tình trạng đó. Nhớ cồn cào đến xao xuyến là mỗi dịp xuân về: Nhớ Tết quê tôi. Nhớ tuổi thơ tôi và nhiều nỗi nhớ khác nữa.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Thuở nhỏ, tôi thường trốn ngủ trưa đi nghe hát vè. Ở Huế lúc ấy gọi là nói vè, như theo tôi phải gọi là hát vè thì đúng hơn, bởi người hát có bài có bản, có giai điệu, trầm bổng, có cả nhạc cụ.
HỒ XUÂN MÃN
(Nguyên UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế)
Năm 1973, để chuẩn bị cho ký kết hiệp định Paris, Khu ủy và Quân khu Trị Thiên - Huế chủ trương tổ chức các lực lượng (bao gồm cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) tổ chức đánh chiếm các căn cứ và phân chi khu địch để giành đất, nắm dân, cắm cờ giành quyền làm chủ.
TRẦN THỊ NHƯ MÂN
Tôi sinh ra trong gia đình quan lại, đã mấy đời làm quan với triều đình Huế(1). Khi tôi lớn lên thì chế độ cai trị của thực dân Pháp đã bước vào giai đoạn ổn định sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chiếc ngai vàng của nhà Nguyễn từ nay trở đi chắc không còn phải chịu những cơn sóng gió đáng kể chi nữa.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
Trích "Hồi ký song đôi"
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.
LÊ QUANG KẾT
Bông hồng dâng mẹ
Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.
TRẦN HOÀN
Hồi ký
Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.