Đi qua những vườn mai Huế

09:19 07/02/2013

VÕ NGỌC LAN 

Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

Ảnh: internet

Hoa mai chỉ dành cho mùa xuân cũng như hoa đào chỉ nở rộ khi tết đến xuân về. Từ miền Trung trở vào, hầu như người ta chỉ chuộng hoa mai. Có lẽ người ta chuộng cốt cách thanh tao và yêu màu vàng vương giả của mai. Ngày còn bé tôi sống ở vùng Kim Long, nhà tôi cũng như hầu hết nhà hàng xóm, trước nhà đều trồng một cây mai. Các cụ bảo mai tượng trưng cho con gái, theo câu nói “Mai cốt cách tuyết tinh thần” vì thế cây mai hay trồng chênh chếch bên trái. Song cũng có nhà cây mai lại được trồng ngay giữa sân, các cụ lại bảo vì mai là tinh thần, chí khí của người quân tử. Với những kẻ hậu sanh như tôi thì các cụ bao giờ cũng đúng vì vừa thông thái, vừa có bồ chữ được chia phần trong thiên hạ. Bởi các cụ luôn đúng nên không những vùng Kim Long mà cả Huế mỗi dịp Tết nhà nào cũng rực rỡ sắc mai.

Ngày tôi về sống ở vùng Gia Hội, dọc con đường Đò Cồn là những vườn mai bát ngát. Nhiều nhà có những cây mai cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Người ta gọi mai cổ thụ là lão mai một cách kính trọng như thể mai là một con người. Trong phủ bà Chúa, việc tưới mai, tỉa lá cho mai luôn giao phó cho một gia nhân rành thuộc tính của mai chăm sóc. Vì thế họ biết lúc nào bắt mai rụng lá và thời điểm nào kích thích cho mai ra hoa. Đôi nhà để có tiền tiêu vào dịp tết cũng có thể bán bớt nhánh mai hoặc để cây phát triển tốt hơn. Đi mua một nhành mai là điều không hề đơn giản bởi mua để chưng thì hoa đó phải đủ tiêu chuẩn của nhành hoa đẹp, mà mua để bán thì làm sao kiếm được lời. Đem tặng một nhánh mai làm sao cho người nhận ưng ý lại càng khó hơn. Ngay khi mai được cắt từ cành đem vào cắm ở lọ lục bình cũng phải lựa cành nào có dáng vươn ra sao để cầu may mắn cả năm. Chủ nhân trong nhà quý mai và bắt buộc mọi người cũng phải tôn trọng mai.

Ở con đường này có Hoàng Mai Trang trước sân đầy mai. Mỗi lần có dịp đi ngang tôi lại ngoái nhìn, nhìn những cây mai có hình dáng mỏng manh với những tư thế dịu dàng. Hồi trước mai không được trồng nhiều trong chậu như bây giờ, mai lả lướt hơn và gần gũi với con người hơn. Có nhà mai là bức bình phong ngăn cách giữa con người với những xô bồ bên ngoài. Để khi mai nở thì cái nhìn đầu tiên là bức bình phong màu vàng, đủ để hiểu người Huế yêu mai và mai gắn bó với họ vô cùng.

Mai có một điểm lạ là cứ giữa tháng chạp là lác đác nụ và đúng ngày mồng một thì bung ra những đóa hoa chi chít trên cành. Thời tiết của Huế thường lạnh nên mai ra hoa đúng kỳ. Nhưng có năm nắng ấm, nên mai lại nở sớm so với quy luật, như tháng chạp năm Nhâm Thìn đã thấy nhiều nhà mai vàng nở rực góc sân. Mỗi lần nhìn hoa mai nở cả một cây hoa mai chỉ thấy hoa với hoa. Nhưng mai vàng xứ Huế phải là mai năm cánh, hiếm hoi lắm mới có cây mọc nhiều cánh. Những đóa hoa mỏng manh ấy dù giá rét hay nắng gắt thì vẫn nở rất đúng hẹn. Và lạ thay chúng không hề bị mưa sa hay bão tố làm rơi rụng, thêm vào đó sức sống của nó lại bền bỉ đến lạ kỳ. Hoa mai Huế không có lá màu đỏ như hồng diệp mai của vùng Trung Trung bộ hay nhiều cánh như hoa mai của miền Nam mà mai Huế chỉ năm cánh và lá xanh, đặc biệt màu vàng thì quyến rũ không thể tả. Nếu đặt một chậu mai Huế giữa vô số mai nhập cư khác, người yêu mai sẽ dễ dàng phân biệt được đâu là mai Huế. Danh xưng hoàng mai như đã đóng đinh cho mai Huế vậy.

Bây giờ ở Huế vườn nhà bị thu hẹp đi nên nhiều nhà không còn hoa mai trước sân. Thú chơi cây cảnh đã làm ít đi những vườn mai nhưng lại thêm rất nhiều hoa mai trồng trong chậu. Lợi thế của mai chậu là người ta có thể trưng từ năm này rồi mùa hoa sang năm lại trưng tiếp. Trong khi đó hoa mai cành được chặt từ một cây mai, sau tết là chết vì khó tái sinh. Nhìn người Huế trưng mai vào dịp Tết đủ thấy địa vị độc tôn của loài hoa này không thay đổi. Mai trồng trong chậu được chăm sóc công phu, uốn thế đẹp có giá hàng trăm triệu đồng. Như những lão mai trong vườn hoa của chị Tôn Nữ Hà ở Lê Thánh Tôn hay của anh Trần Dũng ở đường Nguyễn Chí Thanh tập hợp nhiều cây mai quý của Huế. Có năm trời rét, chính chủ nhân của những vườn mai này đã cho mai vào thành phố Hồ Chí Minh trốn rét mới có hoa ra đúng kỳ. Rõ ràng “yêu hoa mới đánh đường tìm hoa” là vậy.

Tôi đã có dịp về thăm làng hoa mai bên kia phá Tam Giang khi nơi này mở hội hoa xuân. Đúng là cái thú yêu hoa khiến con người bất chấp gió rét để hoa nở đúng dịp xuân về. Có về đây lại gặp được những người Huế yêu mai, đi ngắm mai. Nhìn hoa mai nở đẹp trăm người nhìn ngắm vậy mà sao tôi vẫn thích những cây hoa mộc mạc đứng giữa sân hay góc nhà nào đó. Như một lần tình cờ đi qua Đập Đá ngày 30 tết tôi thấy một lão mai nở hoa rực rỡ ngay đường Nguyễn Sinh Cung. Nhìn hoa và màu hoa sao thấy rung động lạ kỳ. Nghe đâu cây mai này đã hơn trăm tuổi và chưa bao giờ chủ nhân chặt một nhánh nào. Để rồi chiều ba mươi tết đi ngang qua Thương Bạc trong giá rét cuối năm vẫn thấy những người bán mai đứng sau những cành mai chờ khách đến mua. Chợ hoa chiều 30 vẫn hàng năm một đều đặn đi qua ký ức bao người dân Huế. Không hiểu có ai trong họ đã đau xót khi phải chặt đi cây mai mà mình chăm bẳm yêu quý? Tôi không quên được ngày còn bé theo mẹ vào Thành nội đến nhà cụ Án ở đường Nguyễn Huệ mua mai về bán. Chị con gái chủ nhà đã ôm cây mai già khóc không cho mẹ tôi chặt mai, mới thấy thấm thía tình người đối với cây mai thân quý. Bởi vậy tôi không ngạc nhiên khi trong nhà người Huế, lúc gia chủ mất đi người ta lại chít dây tang cho hoa và cây. Với người Huế, cây cối là người thân trong gia đình. Riêng mai thì tình thân đó càng mặn nồng hơn.

Bây giờ Huế đã có thêm vườn mai trước kinh thành để ai ngang qua đều có dịp ngắm nhìn mỗi độ xuân về. Tôi vẫn đến thăm vườn mai này khi có dịp về Huế mỗi lần tết đến. Quý hơn hết là những cây mai đó được trồng tự nhiên, không gò bó trong những cái chậu sành sứ. Những vườn mai như thế gợi cho tôi về những tháng ngày năm cũ và thú chơi hoa đầy tao nhã của người Huế. Với tôi tình yêu dành cho loài hoa này vẫn nồng nàn như một gợi nhớ về quê hương và năm tháng tuổi thơ.

TP. HCM, ngày 02 tháng 01 năm 2013
V.N.L
(SH288/02-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.