Trong lịch sử, chưa bao giờ Việt Nam có đội ngũ những người làm lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật chuyên nghiệp như hiện nay, đóng góp các công trình nghiên cứu mỹ thuật từ giai đoạn cổ đến hiện đại một cách dày dặn, liên tục và xuyên suốt. Tuy nhiên, việc đào tạo nhân lực cho ngành lý luận, lịch sử và phê bình mỹ thuật đang đứng trước nhiều khó khăn.
Chuyên ngành hẹp, nhu cầu thấp
Trong giai đoạn đầu, lý luận, phê bình mỹ thuật có sự góp sức của các họa sĩ. Từ năm 1978, Khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam ra đời, đào tạo các thế hệ làm nghiên cứu, phê bình mỹ thuật. Có thể thấy, nền tảng mỹ thuật Việt Nam non trẻ lúc đó đang có những manh nha trong tư tưởng “đổi mới” để đến năm 1986 “mở cửa” bùng phát mạnh mẽ. Bởi vậy, sự ra đời của khoa là khởi đầu tốt đẹp cho việc đào tạo một nền tảng kiến thức mỹ thuật mới.
Đến nay, 40 năm Khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật (nay là Khoa Lý luận, Lịch sử và Phê bình mỹ thuật) với 19 khóa đào tạo, đã có những đóng góp nhất định cho nền mỹ thuật Việt Nam. Theo nhà phê bình Nguyễn Quân: “Lật lại báo chí trước những năm 1970, ta thấy sự hoang vắng tuyệt đối, có khi cả tháng mới có một tin, bài nhỏ. Ngày nay quảng bá, phê bình nghiên cứu mỹ thuật xuất hiện hàng ngày, dày đặc, phong phú. Nếu cả năm 1985 tôi chỉ thấy 1 đầu sách mỹ thuật thì bây giờ con số ấy tăng cả trăm lần. Đã có hàng chục công trình lịch sử mỹ thuật nghiêm túc được công bố…”. Còn theo Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam Trần Khánh Chương: Hội Mỹ thuật Việt Nam có giải thưởng Lý luận phê bình mỹ thuật cho các hội viên, trước đây giải thưởng chủ yếu cho bài viết, nay chủ yếu cho sách. Từ các bài viết ngắn cho đến các cuốn sách là giai đoạn dài. Ở đó có phần lớn đóng góp của Khoa Lý luận, Lịch sử và Phê bình cho mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Tuy nhiên, nhìn lại, ngành lý luận - phê bình mỹ thuật và việc đào tạo nhân lực cho ngành luôn đứng trước khó khăn, thách thức. Theo TS. Đặng Thị Phong Lan, Trưởng Khoa Lý luận, Lịch sử và Phê bình mỹ thuật, do là chuyên ngành hẹp, nhu cầu xã hội thấp, nên lịch sử 40 năm của khoa cũng là quá trình gian nan. Từ năm 2013, nhà trường cố gắng năm nào cũng tuyển sinh, nhưng sinh viên ngày một ít, thậm chí có khóa 1, 3, 5 em. Đã thế, trong quá trình học, sinh viên còn “rơi rụng” do chuyển sang học các ngành khác. Điều này do nhiều nguyên nhân: Sinh viên ra trường khó tìm được việc đúng chuyên ngành, hoặc gần chuyên môn nhưng thu nhập không bằng những ngành khác. Các tạp chí mỹ thuật ít và tiếp cận người đọc chưa rộng rãi, chủ yếu cho các trường mỹ thuật và người nghiên cứu, nhuận bút không bảo đảm... nên ít người theo lý luận, phê bình. Ngành lý luận, phê bình của Hội Mỹ thuật chỉ có khoảng 50 hội viên; trong khi đó, lực lượng phê bình mỹ thuật hiện nay chủ yếu là người không được đào tạo chuyên ngành.
Đổi mới chương trình đào tạo
Theo nhà phê bình Nguyễn Quân, việc thành lập Khoa Lý luận và Lịch sử mỹ thuật là cột mốc, không chỉ của Trường ĐH Mỹ thuật Việt Nam mà trong tiến trình phát triển khoa học xã hội nhân văn và văn hóa thẩm mỹ ở Việt Nam. “Khi chúng tôi thành lập khoa này, đây là khoa lý luận và lịch sử mỹ thuật đầu tiên ở Đông Nam Á. Việc thành lập khoa lúc ấy gây tranh cãi bởi thực chất, môn này được coi là môn khoa học xã hội nhân văn, không phải môn mỹ thuật, và đều đặt ở trường tổng hợp. Đặt ở trường mỹ thuật bất lợi vì bị tách ra khỏi môi trường sống của nó là khoa học xã hội nhân văn, nhưng có cái lợi là nó gắn bó trực tiếp với đời sống mỹ thuật cụ thể, và những người học khoa này có thực hành và có lý thuyết về thực hành nghệ thuật”. Để phát huy thế mạnh và khỏa lấp khuyết yếu của khoa khi đặt ở trường mỹ thuật, lãnh đạo khoa đã thu hút “chất xám” của các ngành khoa học xã hội nhân văn qua việc mời các nhà nghiên cứu đầu ngành giảng dạy, cung cấp cho sinh viên nền tảng xã hội nhân văn.
Theo nhà nghiên cứu Phạm Trung, Phó Viện trưởng Viện Mỹ thuật, nếu không có khoa đào tạo về lý luận, phê bình mỹ thuật, công việc nghiên cứu sẽ trở thành tự phát như những năm đầu thế kỷ. Bên cạnh đó, theo nhiều ý kiến, việc đào tạo những người làm lý luận không chỉ để đồng hành với sáng tác, mà còn đóng góp cho đời sống văn hóa của đất nước, hàm lượng khoa học của phê bình lớn nhất trong các công trình nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Do đó, cần duy trì đào tạo, bằng cách thay đổi phương thức cho phù hợp với thời đại mới, trong thực tế văn hóa mỹ thuật mới, và trong vận động của văn hóa đại chúng, kinh tế thị trường.
Theo Ngọc Phương - ĐBND
Mặc dù được “mệnh danh” là vùng đất có nền văn hóa, nghệ thuật truyền thống lâu đời nhưng thiết chế văn hóa của Thừa Thiên- Huế đang còn nhiều bất cập. Nhiều địa điểm biểu diễn nghệ thuật chưa xứng tầm với các sự kiện quốc gia, quốc tế; hệ thống nhà văn hóa (NVH) ở các cấp được đầu tư xây dựng nhưng hoạt động chưa hiệu quả.
NGUYỄN KHẮC THẠCH
Đâu phải cái gì cũng qua rồi là xong, là hết. Ra đi và sống mãi là chương trình truyền hình trực tiếp mà VTV đã thực hiện khi vị đại tướng của nhân dân đã ngủ yên trong lòng đất mẹ.
Một mùa tri ân, tôn vinh nghề dạy học nữa lại về, cả xã hội đang hướng đến những người “chèo đò” trên dòng sông tri thức bằng những suy nghĩ, bằng cả việc làm theo cách nghĩ.
Báo cáo của Văn phòng thường trực phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn gửi Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết trong đợt lũ vừa qua, không có nhiều thủy điện xả lũ và mức xả không lớn. Thế nhưng phản ánh từ các địa phương cho thấy bản báo cáo này hoàn toàn khác xa với thực tế.
Cách đây vừa tròn 96 năm, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Bônsêvích Nga và Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
Câu chuyện "mất bò mới lo làm chuồng" trong quản lý di tích vẫn lặp lại khi thời gian qua, các vụ việc xâm nghiêm trọng di tích liên tục xảy ra (như vụ xâm hại thành cổ Luy Lâu Bắc Ninh), chùa Trăm Gian (Chương Mỹ, Hà Nội), Chùa Một Cột bị xuống cấp nghiêm trọng...). Thế nhưng, đến khi dư luận bức xúc, báo chí lên tiếng thì các cơ quan chức năng mới "biết" để vào cuộc xử lý.
Tại Đà Nẵng, được sự uỷ quyền của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Trung tâm Công nghệ Thông tin vừa tổ chức hội thảo khoa học “Quản lý chất lượng sản phẩm văn hóa qua công tác xây dựng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật”.
Đón Đại tướng về đất mẹ Quảng Bình, niềm thương đau của người dân hiện diện trên từng gương mặt trong cả biển người đứng bên đường hơn 60km từ sân bay Đồng Hới ra tới vũng Chùa, từ lúc chiếc máy bay chở linh cữu Đại tướng hạ cánh cho đến lúc nắng tắt trên núi Thọ.
Ông Vũ Trọng Kim, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho biết, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đề nghị phát động học tập, noi theo tấm gương cao quý và mẫu mực vị Đại tướng anh minh của dân tộc Việt Nam anh hùng. Tất cả những kiến nghị này, theo ông Kim là xuất phát từ tâm nguyện của nhân dân.
Di chuyển chậm rãi giữa biển nguời lưu luyến, sau gần 3 tiếng đồng hồ, đoàn xe tiêu binh chở linh cữu Đại tướng vừa về đến khu vực Vũng Chùa. Nguời đưa tiễn đang đếm những bước chân cuối cùng trên hành trình đưa Đại tướng về nơi an nghỉ...
Người dân Quảng Bình đón linh cữu Đại tướng Võ Nguyên Giáp với một tâm thế vô cùng đặc biệt. Đại tướng là vị tướng của nhân dân, nhưng cũng là một người đồng hương.
Chuyên cơ chở linh cữu linh cữu Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cất cánh từ Sân bay Nội Bài hướng về đất mẹ Quảng Bình.
ầu Giấy, Xuân Thủy, Phạm Văn Đồng rồi tới cầu Thăng Long... lùi dần sau cỗ linh xa đưa Đại tướng rời Hà Nội. Người dân thủ đô đều bật khóc khi nói lời tiễn biệt... Chuyên cơ chở linh cữu Đại tướng đã cất cánh hướng về Quảng Bình.
Dồn dập các tin báo vỡ đập, xả lũ khẩn cấp khiến phố phường, làng mạc chìm sâu dưới biển nước đục ngầu, dân chúng phải bỏ của chạy lấy người hoặc mất mạng trong dòng xoáy. Công luận đặt câu hỏi: Vì sao hồ đập thủy lợi, thủy điện được xây dựng vì lợi ích cộng đồng, lại trở nên nguy hiểm đến như vậy?
Dù chưa phải là tang lễ chính thức nhưng ngay từ chiều nay (6/10), nhiều người dân đã tập trung tại số 30 phố Hoàng Diệu để vào viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời tại Bệnh viện Trung Ương Quân Đội 108 vào lúc 18 giờ chiều ngày 4 tháng 10 năm 2013 hưởng thọ 103 tuổi.
Du lịch làng nghề truyền thống ngày càng hấp dẫn du khách và đang là một hướng phát triển du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, xã hội, hình thức du lịch này còn góp phần bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hoá độc đáo của từng vùng miền, địa phương.
Vài năm trước đây, Việt Nam hân hoan rùm beng với việc 10 hồ sơ xin UNESCO chứng nhận là di sản thế giới, đã mang lại kết quả mỹ mãn. Nào Hạ Long, nào Huế, Hội An… đến nhã nhạc cung đình, ca trù, quan họ…
Trong những ngày mùa thu lịch sử năm Ất Dậu (tháng 8-1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta nhất tề nổi dậy, tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa đập tan gông xiềng nô lệ, ách áp bức thực dân hơn 80 năm và chế độ phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm, dựng nên một nhà nước mới - Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Theo Bộ Công thương, ngoài hàng loạt các dự án mới bị đề nghị loại bỏ, đến nay vẫn có 340 dự án thủy điện vừa và nhỏ đã đi vào vận hành hoặc đang trong quá trình đầu tư xây dựng.