Mộc bản là một trong những di sản quý giá của nền văn hóa dân tộc. Năm 2009, UNESCO đã công nhận mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới (số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV- Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).
Ván khắc trang bìa Lăng Nghiêm kinh tập chú, Khải Định thứ 7 (1922), tàng bản chùa Diệu Đế, hiện lưu tại chùa Từ Đàm - Ảnh tư liệu Liễu Quán
Năm 2012, UNESCO ghi danh mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) là di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á- Thái Bình Dương…
Với di sản mộc bản Phật giáo Huế, vừa qua Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán với sự hợp tác của các nhà nghiên cứu thuộc các cơ quan văn hóa trên địa bàn thành phố Huế đã tiến hành khảo sát, thống kê và công bố những thông tin bước đầu khiến nhiều giới nghiên cứu quan tâm. Bởi ít ai nghĩ rằng, Phật giáo Huế hiện còn lưu giữ được số lượng mộc bản nhiều như thế, với chủng loại phong phú, tích hợp đa niên đại khắc bản, qua đó có thể giúp chúng ta hình dung rõ nét đời sống văn hóa, tôn giáo, tư tưởng của xứ Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn, vương triều Nguyễn cho đến những thập niên cuối của thế kỷ XX.
Mộc bản Phật giáo Huế, một di sản quý
Với 2.933 ván khắc kinh Phật các loại, hiện được lưu giữ tại 13 địa điểm gồm: chùa Từ Đàm, chùa Từ Hiếu, chùa Thiên Mụ, chùa Bảo Lâm, chùa Quốc Ân, chùa Tường Quang, chùa Hải Đức, chùa Giác Lâm, chùa Tường Vân, chùa Tra Am, Bảo tàng Tổng Hợp tỉnh Thừa Thiên Huế và từ đường Đào Lý Phương Viên của gia đình họ Đặng (120 Mai Thúc Loan - Huế). Trong đó chùa Từ Đàm hiện là nơi có số lượng lưu trữ lớn nhất: 1.319 mặt khắc.
Tính đến thời điểm hiện tại, ván khắc có niên đại sớm nhất tại Đàng Trong được tìm thấy là kinh Kim Cang, khắc bản Chính Hòa thứ 19 (Mậu Dần -1698), tức dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725). Ván khắc này chỉ còn lại một ván duy nhất, với hai mặt khắc: một mặt khắc 4 trang cuối của cuốn kinh kèm theo những thông tin về niên đại khắc bản; mặt còn lại khắc tranh đồ họa pháp hội giảng kinh Kim Cang do Thiền sư Thạch Liêm Đại Sán vẽ.
Bản khắc muộn nhất là bộ kinh Duy Ma Cật do vị trú trì chùa Tường Quang (149 Chi Lăng) pháp danh Hồng Khế, tự Chơn Như khắc vào năm 1980 và hoàn thành năm 1982. Ngoài ra, những mặt khắc còn lại được trải rộng từ thời các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến Bảo Đại.
Qua khảo sát về nội dung cũng như mỹ thuật, số lượng mộc bản được tìm thấy dù chưa đầy đủ không chỉ là một bảo vật vô giá với Phật giáo Huế, mà còn là nguồn tư liệu cho các nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực lịch sử, văn hóa, hội họa, ngôn ngữ, sự truyền thừa của các tông phái như Thiền phái Phật giáo Liễu Quán, thân thế và sự nghiệp của nhiều vị cao tăng, lịch sử nghề khắc in mộc bản, tư tưởng,… Đồng thời, nó còn giúp các nhà nghiên cứu có nguồn sử liệu quý giá để nghiên cứu quá trình phát triển của hệ thống văn tự chữ Hán dưới thời các chúa Nguyễn cũng như triều đình phong kiến nhà Nguyễn cho đến cuối thế kỷ XX.
Với nội dung phong phú bao gồm kinh, luật, luận, khoa nghi, trước tác, phái điệp quy y thọ ký, đồ họa cổ và một số bản khắc liên quan đến Mật tông. Trong đó, ván khắc thuộc Kinh tạng chiếm số lượng lớn nhất, với 30 bộ kinh/sám như: Lương Hoàng Sám, kinh Kim Cang, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh, Thiền Môn Nhật Tụng, kinh Tam Bảo, kinh Di Đà…
Về Luật tạng có bốn bộ ván khắc gồm Tứ phần luật - Phạm võng kinh [71 mặt khắc, Minh Mạng thứ 8, tàng bản chùa Thiền Lâm]; Hoằng Giới Đại học chi thư [65 mặt khắc, Thành Thái thứ 7, tàng bản chùa Viên Thông]; bộ Luật giải [173 mặt khắc, Thành Thái thứ 14, tàng bản chùa Bảo Lâm]; và bộ Luật tiểu [62 mặt khắc, Bảo Đại thứ 2, tàng bản chùa Phước Huệ]. Về Luận tạng bao gồm các bộ như Đại Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm kinh tập chú, Kim Cang kinh chú giải, Trì Danh Diệu Hạnh Luận - phụ Sơn Cư Bách Vịnh...
Ngoài ra, nội dung mộc bản còn có các khoa nghi như: Niệm Phật vãng sanh nghi, Chánh khắc Trung khoa Du-già tập yếu, Thí thực khoa nghi... Đặc biệt, trong đợt khảo sát này còn tìm thấy đầy đủ ván khắc phái điệp quy y - thế độ thuộc bốn dòng truyền thừa hiện hành tại Huế, như dòng Lâm Tế Liễu Quán, Lâm Tế Quốc Ân, Lâm Tế Thập Tháp và Lâm Tế Chúc Thánh...
Bên cạnh những ván khắc kinh bằng chữ thì mộc bản còn có giá trị mỹ thuật cao qua các bức tranh đồ họa Phật giáo. Ở đó thể hiện sự hiện hữu của dòng nghệ thuật cung đình, quy định những điển chế của của nhà nước phong kiến, vượt lên những ước lệ mang tính dân gian trong cách thể hiện. Trong đó, có thể loại sử dụng trong nghi lễ như tranh Đức Phật A Di Đà, Đức Phật Dược Sư, Bồ-tát Địa Tạng, Sư Tử tòa… Tranh minh họa trong kinh sách như hình tướng chư Phật, chư Bồ-tát, tranh Hộ Pháp; tranh mang tính chiêm bái, giải thích và hướng dẫn trong các bản niệm Phật công cứ.
Đặc biệt có những bức tranh do chính các thiền sư là tác giả như Thiền sư Thạch Liêm Đại Sán minh họa trong kinh Kim Cang, tranh minh họa kinh Lăng Nghiêm tập chú của Thiền sư Viên Thành…
Ván khắc được lưu trữ tại chùa Từ Đàm - Ảnh: Nguyễn Hữu Thông
Với chất liệu chủ yếu từ các loại gỗ thị, đây là loại gỗ rất phù hợp với việc chạm khắc, như mềm, mịn, dai, dễ khắc, ít cong, vênh, khó nứt vỡ và khi in chữ không bị nhòe. Văn bản được khắc bằng chữ Hán âm bản, khi in ra giấy sẽ trở thành chữ xuôi. Kích thước các mộc bản không đồng đều tùy theo từng kinh sách, bản khắc lớn nhất là tượng ngài Địa Tạng Bồ-tát chiều dài 1,20m x 0,60m hiện đang được lưu giữ tại chùa Linh Mụ.
Quan sát kỹ thuật cho thấy, có ván được khắc cả hai mặt nhưng cũng có ván chỉ khắc một mặt, dùng để in hai trang sách. Biên lan có khung viền 4 lề trang sách với một đường chỉ to đi cùng một đường chỉ nhỏ. Bản tâm thường khắc dòng chữ cho biết tên sách, cùng với số thứ tự của trang.
Ván đầu tiên thường khắc tiêu đề kinh, tiếp đến là lời tựa nói rõ lý do khắc bản rồi đến nội dung kinh; ván khắc cuối cùng thường chứa những thông tin về niên đại khắc bản, danh tính các nghệ nhân khắc chữ hoặc phương danh thí chủ hiến cúng tịnh tài trợ khắc.
Di sản quý cần được bảo tồn và phát huy
Mặc dù quý giá như vậy, nhưng suốt nhiều năm qua, do được cất giữ rải rác ở nhiều địa điểm khác nhau nên việc bảo quản mộc bản chưa có sự đồng bộ và tỉ mẫn cần thiết trong công tác bảo tồn với khí hậu hết sức khắc nghiệt của miền Trung. Nói cách khác, số lượng mộc bản hiện được các chùa, cơ sở tư gia cất giữ như một bảo vật của tiền nhân truyền lại mà chưa thực sự có ý thức về việc bảo tồn một cách khoa học.
Qua thời gian và với sự khắc nghiệt của thời tiết như đã nói, cộng với sự chưa ý thức cũng như được hướng dẫn về công tác bảo tồn, nên một số bản mộc thư đã bị mục sứt, hoặc bị nhiễm nấm mốc.
Ông Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng ban Văn hóa - Tư tưởng T.Ư
phát biểu tại tọa đàm về mộc bản Phật giáo Huế hôm 13-9-2015 - Ảnh: Q.Đ
Trong buổi tọa đàm diễn ra vào ngày 13-9-2015 tại Trung tâm VHPG Liễu Quán (Huế), HT.Thích Hải Ấn - Phó Trưởng ban Văn hóa T.Ư kiêm Trưởng ban Văn hóa Phật giáo Huế, Trưởng ban Điều hành Trung tâm cùng với các nhà nghiên cứu, đại diện các cơ quan chức năng liên quan tại cố đô đã ngồi lại thảo luận đưa ra những đề án về việc bảo tồn và phát huy giá trị của kho tàng mộc bản Phật giáo tại tỉnh nhà.
Ít ai biết Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) từng bị sử dụng làm nơi đóng quân, có thời gian lại dùng làm điểm “cách ly dã chiến” cho việc đối phó với dịch tả ở Hà Nội.
Mỗi dịp đầu Xuân mới, các làng xoan cổ ở Phú Thọ lại có dịp hội tụ hát những làn điệu mượt mà, đằm thắm, thấm đậm tình đất, tình người đất Tổ Vua Hùng.
Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), có sáu lễ hội truyền thống đã được bổ sung vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
LTS: Đầu tháng 12-2016, tại phiên họp Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO, di sản thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tại Việt Nam, có luồng ý kiến cho rằng, những biến tướng từ tín ngưỡng này đang gây ảnh hưởng không nhỏ đời sống văn hóa tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là gì và tại sao một bộ phận người Việt có cái nhìn như vậy?
GS Ngô Đức Thịnh cho rằng đạo Mẫu có những vị thánh được “dệt” từ anh hùng trong lịch sử. Bằng cách đó, đạo Mẫu cũng thể hiện chủ nghĩa yêu nước.
Ngày 3/12, đại diện của khoảng 40 nước nhóm họp tại Abu Dahabi đã thông qua kế hoạch thành lập một quỹ bảo vệ các di sản trong các khu vực có chiến tranh và một mạng lưới cất giữ an toàn cho các tác phẩm nghệ thuật đang gặp nguy hiểm.
Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ngày 29.11, Sở VH-TT TP.Đà Nẵng cho biết Nghệ thuật hô/hát bài chòi dân gian ở Đà Nẵng vừa được Bộ VH-TT-DL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Mới đây, Bộ tem “Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” đã chính thức được phát hành và có thời hạn cung ứng trên mạng bưu chính công cộng đến ngày 30/6/2018.
Trước khi cho phóng viên Thanh Niên chụp ảnh chiếc lư đồng, ông Hà Xuân Út, Trưởng làng La Chữ (P.Hương Chữ, TX.Hương Trà, Thừa Thiên-Huế) phải thắp hương xin phép Thành hoàng, bởi chiếc lư được cho là bảo vật rất thiêng của làng.
Di tích lịch sử Văn miếu Trấn Biên (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai) đã chính thức được công nhận là di tích cấp quốc gia (theo Quyết định số 2894/QĐ-BVHTTDL do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện ký).
Kim sách triều Nguyễn chứa đựng nhiều thông tin giá trị về lịch sử văn hóa và nghệ thuật đỉnh cao của các nghệ nhân, thợ thủ công cung đình xưa.
TRẦN VĂN DŨNG
Trong dòng chảy lịch sử hàng trăm năm, Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau để trở thành một trong những loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam.
Với mục tiêu năm 2016, hát Xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới thoát khỏi tình trạng cần được bảo vệ khẩn cấp và chính thức trở thành di sản đại diện của nhân loại, tỉnh Phú Thọ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa hát Xoan.
Trong khi nhiều loại hình âm nhạc truyền thống đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, thì ca Huế vốn là loại hình âm nhạc bác học mang giá trị độc đáo, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn, lại chỉ mới được Bộ VH-TT-DL công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia.
Theo kế hoạch đến cuối năm 2015, tỉnh Phú Thọ sẽ phải đưa Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp, chính thức đưa hát Xoan trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.
Xúc động, đầy tính nhân văn và hoàn toàn tương đồng với những giá trị đạo đức của người Việt, lễ Vu lan báo hiếu đang được một số chuyên gia đề nghị tìm hình thức tôn vinh xứng đáng.
Trong hành trình của “Trại hè Việt Nam 2015,” ngày 21/7, Đoàn thanh niên sinh viên kiều bào đã đến với Huế - thành phố văn hóa ASEAN có khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp với sông Hương, núi Ngự cùng đền chùa, thành quách, lăng tẩm cổ kính rêu phong gắn liền với triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
LTS: Hiện vật chiếc xe kéo tay vừa được đấu giá thành công và đưa về Huế, đang được trưng bày tại cung Diên Thọ, khu vực sinh hoạt của các hoàng thái hậu triều Nguyễn. Tấm bảng giới thiệu về chiếc xe ghi rõ: “Theo hồ sơ đấu giá, đây là chiếc xe kéo do vua Thành Thái tặng cho mẹ mình là hoàng thái hậu Từ Minh để dạo chơi trong vườn ngự uyển”.
Cuộc hội thảo bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vừa được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế tổ chức trong hai ngày 8 và 9.5, tại TP.Huế.