PHÙNG TẤN ĐÔNG
“Đời của nó như thể bềnh bồng
Cái chết của nó như thể an nghỉ”
F.Jullien
(Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)
Nhà văn Đà Linh - Ảnh: internet
Một năm đã lặng lẽ qua. Một người đã về nơi nảo nơi nao xa thẳm. Trong tôi, tôi với Đà Linh như cứ mãi còn nợ nhau một lần gặp nữa... Rốt, tôi với anh cũng là những kẻ bình sinh có “duyên” mà không “nợ” - có chung một ý hướng mà không có điều kiện để song hành, bù khú, sẻ chia... Số là cuối những năm 80, sau khi tốt nghiệp đại học, tôi cầm cái thư giới thiệu đầy chất tùy bút của anh Tường (Hoàng Phủ Ngọc Tường) về gặp anh Giai - Giám đốc Nhà xuất bản Đà Nẵng lúc bấy giờ xin một chân biên tập sách, rồi sau đó, mặc dù anh Giai đã “cố” hết sức - như tính anh hay tận tâm với bạn bè, em út - nhưng do những tì vết quá khứ gia đình - do “âm bản đời riêng” nên tôi đành “chào thua” cuộc lữ... Nhiều khi ngồi với Đà Linh, lúc anh đương là “tổng biên tập” nhà xuất bản - nói những “giá như” kiểu “với “giá như”... thì người ta có thể nhốt Paris vào một cái chai” anh cười cười nói trong “họa” có “may”, ông mà về với tôi, ông là thằng “chết” trước, ông là đứa cao ngạo ngầm, có tham vọng bách khoa, lại nhất thời hồ đồ... Đành lòng vậy, cầm lòng vậy, ừ, cái thằng tôi của mình “thua” xa Đà Linh nhiều thứ, trước hết anh ta là dân “con nhà” - dân cách mạng nòi, anh là dân Quảng Nam nói tiếng Bắc, thứ hai là anh chỉn chu, luôn có tác phong “phát biểu”, luôn com-lê, cà vạt, đi uống cà phê mà như đi hội nghị, ba là - món này thì tôi “kính phục” - rằng dù có bị người ta chửi thẳng vô mặt rằng mày là đứa nọ con kia, anh vẫn cố nén, cố nín nhịn, cố “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”, rồi sau đó mới lịch sự ‘mời ông/anh vui lòng đi chỗ khác...”. Vậy rồi cũng có nhiều khi anh lên cơn thịnh nộ, thịnh nộ cũng với một phong cách rất “quý ông lịch sự” nghĩa là tuyệt không nói tục, không chửi tục, rồi anh lại có tật nói lắp - một sự khó khăn bày tỏ vốn có từ bé thơ chăng, vậy mà, từ 20 năm có lẽ, từ khoảng 1990 đến năm 2010, con người ấy trở thành người đồng hành khốn khổ của cái Đẹp, của sự khai phóng việc viết và đọc văn chương không chỉ ở địa phương đất Quảng, mà cả miền Trung, cả nước...
Quen nhau từ thủa lên tàu ra Bắc dự Hội nghị “những người viết văn trẻ” năm 1994 (Đà Linh là trưởng đoàn nhà văn trẻ QN-ĐN mà thành viên là Trần Kỳ Trung và tôi), lúc bấy giờ anh đã có những truyện ngắn đầu tay có những nhân vật “cá biệt” như “Nàng Kim Chi sáu ngón”, anh cựu binh lên cơn điên loạn sống bằng hồi ức chiến trường..., đại loại, nhiều những nhân vật xù xì, lẩn khuất, dị biệt mà tốt đẹp, lương thiện, chỉ khi kẻ khác (nhà văn, bạn đọc) nhìn kỹ, nhìn bằng con mắt “biệt nhãn liên tài” thì mới thấy, mới cảm nghiệm. Sau này, khi anh “thôi” truyện ngắn, tôi hay đùa chọc, rằng anh nên viết một tập nữa, lấy tên là “Vĩnh biệt nàng Kim Chi sáu ngón” tại sao không?, anh cười, nói “vấn đề là viết như thế nào thôi ông ạ”, thật vậy, viết như thế nào bao giờ cũng là mối suy tư thường trực của kẻ viết là lũ chúng tôi. Ngồi với Đà Linh sau những chuyện đồn thổi gái trai ông nọ bà kia thường không kéo dài lâu, bao giờ cũng là chuyện văn, chuyện triết. Nhà thơ Trần Tuấn nói Đà Linh hay “đem bạn bè” làm mồi nhậu là quá trúng. Con người ấy cũng là chúa cả tin vì hồn nhiên rất mực. Chuyện có thật, trong một lần “gặp gỡ cuối năm”, nhận “bì” xong, anh em hẹn nhau “đi quán”, bữa đó bận khách - vì đang làm lãnh đạo, Đà Linh dặn từng người rằng anh em cứ đến trước, mình đến sau, cứ kêu bia bọt vô tư, tính sau, mấy ông ở xa cứ giữ bì mà đổ xăng, đừng lo. Khi đến quán, Trần Kỳ Trung đầu têu trò PR hầu moi tiền Đà Linh bằng cách triệu tập ba bốn em tiếp viên trong quán lại, bảo thế này, thế này, nhớ diễn cho tốt, anh boa, anh boa. Khi Đà Linh đến, các em reo lên chào nhà văn, chào nhà văn, Đà Linh ngạc nhiên nói chắc mấy anh này nói trước chớ gì, một em nói, ô, có tác phẩm nào của anh mà em không đọc đâu, bìa sách của anh có in ảnh anh nữa, em kể tên sách của anh nhá, rồi các cô, mỗi cô mỗi kể... Đà Linh sướng, sướng tê sướng tái quay sang anh em đầy hãnh diện, rồi nói đó các bác thấy chưa, các em vất vả thế này mà còn đọc Đà Linh, biết Đà Linh, thấy chưa, thấy chưa, và rồi vung tay bẻ ngón kêu khặc khặc, hô lớn bia đâu, bia đâu, rồi cạn, rồi boa, boa, Kỳ Trung cười khấc khắc nói đó, đó, anh Linh boa đó, boa đó, sướng chưa...
![]() |
Nhà văn Đà Linh (trái) đọc một sắc phong triều Nguyễn cùng nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân (tháng 7/1998) - Ảnh: Nguyễn Đình Toán (TT&VH) |
Đà Linh là kẻ tiên phong, người đổi mới văn chương, triết học, văn hóa học... trên lĩnh vực xuất bản. Có thể nói, nói khi anh còn sống rằng anh với vai trò chỉ đạo, lãnh đạo - đã làm nên một giai đoạn “sáng danh” cho Nhà xuất bản Đà Nẵng mà mở đầu là những tuyển tập “Thơ miền Trung thế kỷ XX”, “Văn miền Trung thế kỷ XX”, “Lý luận phê bình văn học miền Trung thế kỷ XX”... in vào những năm 2000, 2001. Cuốn “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” của Jean Chevaller, Alain Gheerbrant, Nhà xuất bản Đà Nẵng phối hợp với Trường viết văn Nguyễn Du dịch và in năm 1997 là cuốn “cẩm nang” của giới văn hóa học còn non trẻ của Việt Nam từ đó đến nay. Đặc biệt là từ năm 2000 các tác phẩm triết học của Francois Jullien - giáo sư Đại học Paris 7 - Denis Dierot và là thành viên Viện Đại học Pháp, điều hành Viện Tư tưởng hiện đại lần lượt được dịch và xuất bản ở Việt Nam (Nhà xuất bản Đà Nẵng tổ chức bản thảo dịch và in) như “Xác lập cơ sở đạo đức” (2000), “Bàn về chữ thời” (2003), “Minh triết là vô ý” (2003), “Bàn về cái nhạt” (2003), “Đường vòng và lối vào” (2005)... Đà Linh cũng ‘tiên phong” in lại Phan Khôi, cuốn “Việt ngữ nghiên cứu” cuối những năm 90, in tuyển tập Nguyễn Văn Xuân, Hoàng Châu Ký... cũng vào những năm đó. Việc xuất bản những tác giả trong nước như in “Bóng đè” của Đỗ Hoàng Diệu (2006), “Thơ” của Trần Dần (2008, phối hợp với Nhã Nam) luôn đặt anh trước những thách thức “hoặc chiến đấu hoặc bỏ chạy” thậm chí bị “truy tố” như dư luận đồn đãi... Đà Linh, sau những lần “lên bờ xuống ruộng’ ấy nói không sao không sao, vấn đề là phải bản lĩnh, phải chứng minh là các tác phẩm ấy giá trị, giá trị... Nhưng “đêm dài lắm mộng”, cho đến khi cuốn “Con rồng đá hay mũi tiêm uốn ván” của Vũ Ngọc Tiến... ra đời - như một giọt tràn ly buộc anh phải từ bỏ vị trí, nhiệm sở, ra Hà Nội về Nhà xuất bản Lao Động chỗ anh Lê Huy Hòa, rồi bạo bệnh ập đến và đi... Đà Linh ở một phương diện nào đó - như những Mạnh Thường Quân. Bình Nguyên Quân bên Tàu thủa trước, có “con mắt xanh” của kẻ liên tài - thấy tác phẩm có cái gì hay, mới, vượt thoát khỏi lề lối cũ, ý hệ thẩm mỹ cũ, không phản “chân, thiện, mỹ” là in, nhờ thế mà những “Chuyện tình mùa tạp kỹ” của Lê Anh Hoài - với một kết cấu “giễu nhại”, “hài hước đen”..., “Hôm qua - hôm nay” của Vũ Trọng Quang với nhiều bài thơ “tái sử dụng”, “thơ thị giác”, “Thơ vẽ”... mới được ra đời. Khoan nói về phẩm chất của tác phẩm ấy hãy thấy sự có mặt của nó như một “ấn chứng” của một khai phóng, một quy hồi về cái muôn thủa của văn chương - cái khoảng trời của “những khả thể hư cấu” “những khả thể thể hiện”... Mà triết học F. Jullien từng mượn Héraclite chỉ ra “cái đối lập là cái cùng gánh vác, nó cùng thao tác, tức hợp tác...” chỉ ra “cái đối lập hợp tác”, cái đi ngược có ích, cái khởi sự nghịch dị để vươn tới “cái tích cực hoàn toàn” đó thôi... Đà Linh, anh bạn hiền lành mà “dữ dội” của tôi đã làm được điều mà Lão Tử nói “những việc khó trên đời phải được làm ở giai đoạn dễ dàng” mà với anh, anh đã “tận hiến toàn phần”, đã “chấp nhận”, đã “đánh đu cùng dâu bể” (thơ Thu Bồn), đã “vượt’ qua “con đường sấm sét” của định kiến hẹp hòi, của cảm quan cố chấp và đi, đi cho đến cùng tận của sinh tồn...
Một năm lặng lẽ qua, đôi câu đối đùa vui vừa mới đọc sau lần anh về thăm mẹ, thăm quê lần cuối, anh cười cười, thoáng vẻ “anh hùng chớm mệt”, câu đối rằng “con rồng đá đá anh Hùng ra Bắc - cái bóng đè đè em Diệu qua Tây” (Hùng là Nguyễn Đức Hùng - Đà Linh, Diệu là Đỗ Hoàng Diệu), nghe xong kêu được, được, rồi bàn về cái “tân cổ điển” mà thầy Hiến (Hoàng Ngọc Hiến) xem là “nẻo về của ý” của văn chương đương đại, rồi tranh luận văn Tô Hoài, thơ Nguyễn Bính - và so sánh hai ông, ông mô có tính nhơn loại phổ quát hơn... Tiếc là khi anh đau không thăm anh được, khi anh mất tang sự diễn ra ở Hà thành, đành một nén hương thắp vọng trong ngày đưa nhau...
Hội An, tiết lập thu, Giáp Ngọ, 2014
P.T.Đ
(SDB14/09-14)
Tháng 3-4/1975 Phó Cục trưởng Cục Quân nhu Từ Giấy và con trai Từ Đễ cùng hướng tới Sài Gòn bằng con đường khác nhau: người cha đi theo đường mòn Hồ Chí Minh, người con đi bằng máy bay.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Cuối năm 1961, tôi rời Vụ Báo chí Bộ Ngoại giao về làm biên tập viên chương trình Tiếng thơ Đài Tiếng nói Việt Nam. Chương trình này nằm trong Phòng Văn học do nhà văn Trọng Hứa làm Trưởng phòng.
KIMO
Mười Cents, một đồng xu nhỏ nhất, mỏng nhất được gọi là “dime” và đồng xu nầy được đúc với chất liệu 90 phần trăm bạc và 10 phần trăm đồng như đồng xu năm cents và 25 cents nhưng lại khác với đồng xu một cent.
HƯỚNG TỚI 70 NĂM THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
TÔ NHUẬN VỸ
HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY THÀNH LẬP LIÊN HIỆP CÁC HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
KỶ NIỆM 40 NĂM GIẢI PHÓNG THỪA THIÊN HUẾ
NGÔ KHA
LTS: Dưới đây là một ghi chép của cố nhà báo, nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Kha về những ngày đầu đoàn quân giải phóng về thành Huế dịp 26/3/1975. Rất ngắn gọn, song đoạn ghi chép đã gợi lại cho chúng ta không khí sôi nổi, nô nức những ngày đầu.
Lời nói đầu: Mỗi khi về nhà ở Quỳnh Mai, tôi luôn hình dung thấy Cha tôi đang ngồi đâu đó quanh bàn làm việc của mình. Trong một lần về nhà gần đây, sau khi thắp hương cho Cha, chờ hương tàn bèn mang máy đánh chữ, là vật hết sức gần gũi đã gắn bó với Cha tôi cho tới khi mất, để lau chùi, làm vệ sinh.
Những năm 1973-1976, đến Paris tôi bắt đầu công việc sinh viên, vừa làm vừa học là ký tên và đánh số giùm tranh litho cho Họa sĩ Lê Bá Đảng.
SƠN TÙNG
Một ngày giáp Tết Canh Dần - tháng 2/1950, gặp dịp đi qua làng Sen, tôi ghé vào thăm nơi đã lưu lại những kỷ niệm tuổi thơ của Người.
L.T.S: Vương Đình Quang nguyên là thư ký tòa soạn báo "Tiếng Dân" do Huỳnh Thúc Kháng làm chủ biên, vừa là thư ký riêng của nhà yêu nước Phan Bội Châu, chuyên giúp Phan Bội Châu hoàn chỉnh những văn bản tiếng Việt trong mười lăm năm cuối đời sống và sáng tác tại Huế. Bài này trích từ "Hồi ký về cụ Phan và cụ Huỳnh" do chính tác giả viết tại quê hương Nam Đàn Nghệ Tĩnh khi tác giả vừa tròn 80 tuổi (1987).
NGUYỄN NGUYÊN
Tháng 6-1966, ở Sài Gòn, giữa cái rừng báo chí mấy chục tờ báo hằng ngày, báo tháng, báo tuần, bỗng mọc thêm một từ bán nguyệt san: Tin Văn.
Cứ vào những ngày cuối năm, khi làm báo tết, trong câu chuyện cà phê sáng, làng báo Sài Gòn hay nhắc đến họa sĩ Choé, tác giả những bức tranh biếm - hí họa từng không thể thiếu trên khắp các mặt báo. Có thể nói, cùng với nhà văn Sơn Nam, nhà thơ Bùi Giáng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, họa sĩ Ớt - Huỳnh Bá Thành, danh ca Út Trà Ôn, danh hài Văn Hường,… họa sĩ tuổi Mùi - Choé là một trong những “quái kiệt” của Sài Gòn.
(Lược thuật những hoạt động nhân kỷ niệm 5 năm Sông Hương)
(Bài phát biểu của nhà văn Tô Nhuận Vỹ - Nguyên Tổng biên tập tạp chí Sông Hương trong lễ kỷ niệm 5 năm)
(SHO). Huế đầu đông. Mưa lâm thâm,dai dẳng. Mưa kéo theo các cơn lạnh se lòng. Cái lạnh không đậm đà như miền Bắc không đột ngột như miền Nam, nó âm thầm âm thầm đủ để làm xao xuyến nổi lòng người xa quê... Ngồi một mình trong phòng trọ, con chợt nhớ, một mùa mưa, xa rồi...
(SHO). Mùa mưa cứ thế đến, những nỗi nhớ trong tôi lại từng cái từng cái ùa về, thổi qua và tôi chợt nhận ra trong lúc ngây ngốc tôi đã bỏ quên nhiều thứ như vây; bỏ quên những người thân yêu trong nỗi nhớ của tôi, ở trong kỉ niệm đã qua và giờ tôi nhớ ra cảm giác hạnh phúc, vui vẻ khi ở bên họ, để từ đó tôi quý trọng hơn nữa những giây phút bên cạnh những người mà tôi yêu thương.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Sau một thời gian bị bệnh hiểm nghèo, ca sĩ Hà Thanh đã qua đời vào lúc 19 giờ 30 ngày 1 tháng 1 năm 2014 (giờ Boston) tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ.
ĐẶNG VĂN NGỮ
Hồi ký
Cha tôi lúc còn nhỏ tự học chữ nho có tiếng là giỏi, nhưng đến tuổi đi thi thì thực dân Pháp đã bãi bỏ các kỳ thi chữ nho.
TÔ NHUẬN VỸ
Lớp sinh viên chúng tôi tốt nghiệp Khoa Văn - Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, đúng vào thời điểm Mỹ đánh phá miền Bắc và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam kêu gọi con em miền Nam đang ở miền Bắc hãy trở về chiến đấu cho quê hương.
Giải phóng quân Huế với phong trào Nam tiến
PHẠM HỮU THU