Cuộc đời và âm nhạc cách mạng

09:42 07/05/2009
NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

Sau cái bắt tay thân mật có phần vội vã, và như đã hiểu sự ngỡ ngàng trong tôi nên ông giải thích ngay: "Tớ đã nghỉ hưu mấy năm nay, và cậu thấy đấy, tớ lại quay về Huế để dạy thêm ở trường Đại học Nghệ thuật, vừa xây dựng một số chương trình văn nghệ quần chúng (VNQC) ở cơ sở". Nhìn ông vẫn còn cường tráng, khoẻ mạnh như ngày nào cách đây hơn chục năm, tôi rất mừng cho ông. Quả thật bây giờ gặp lại, tôi như có cơ may để hiểu thêm một phần cống hiến lớn lao của người nhạc sỹ này đối với nền âm nhạc cách mạng.

Nhạc sỹ Thái Quý quê ở Nghệ An. Mảnh đất "địa linh nhân kiệt" ấy sinh ra ông và hình như cũng đã thấm vào ông cái chất lãng mạn từ thuở bé. Những năm học ở trường làng, ông đã sớm say mê "thơ ca nhạc hoạ" - những điều mà người nhà nông ai cũng ít quen, ít biết... Rồi như là cơ duyên, ông được tuyển vào Đoàn Văn công Sư đoàn 320 và trở thành ca sỹ trong quân đội từ ngày đầu năm 1953. Đến năm 1957, con đường ca hát như đã rộng mở hơn khi ông được nhập học Trường Văn hoá Nghệ thuật Quân đội. Những người cùng lứa ở khoá học 2 năm đó, sau này một số đã thành danh như các nhạc sỹ Vũ Tự Lân, Trần Chất, Thuận Yến, Nguyên Nhung... Phần ông, sau ngày ra trường về công tác ở Đoàn Văn công Quân khu 3, giới âm nhạc đương thời khắp miền Bắc hẳn đã biết đến một tác giả Thái Quý sau khi ca khúc "Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc" ra đời. Tác phẩm đầu tay của ông lúc đó bây giờ nhắc lại, ánh mắt người nhạc sỹ đã đến tuổi "cổ lai hy" này còn long lanh niềm vui sướng bởi âm vang của nó. Có lẽ trong cuộc đời sáng tác của nhạc sỹ Thái Quý, bài hát ấy vừa làm cho ông hạnh phúc, vừa là dấu chấm hỏi thiếu đồng cảm từ phía một số người kỳ thị tài năng. Nhưng bởi có giá trị âm nhạc đích thực, "Tiếng hát trên tiền tiêu Tổ quốc" vẫn lan xa rất nhanh, được công chúng mến mộ cho đến bây giờ! Và bài hát đó, chính ông là người đầu tiên thể hiện thành công trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1958.

Như bắt nhịp được với "nghề sáng tác", Thái Quý lúc đó đã viết rất nhiều bài hát phục vụ thiết thực trong Quân đội và quần chúng lao động, mà tiêu biểu là một số ca khúc còn sống mãi với thời gian như: Da em đen để má em hồng, Mùa xuân trên thao trường, Quảng Bình đánh rất hay, Nữ du kích Trị Thiên đánh xe tăng... Ông tâm sự: "Hình như thời gian đó, cái chất thơ chất nhạc của thuở học trò mới thực sự hoà quyện với nhau, thực sự được đánh thức trong con người mình để rồi ra đời một sản phẩm mới: đó là những ca khúc âm nhạc". Thế rồi, ông lại tạm chia tay với nghề ca sỹ ở Đoàn Văn công Quân khu 3 để theo học tại Nhạc viện Hà Nội vào mùa hè năm 1968. Sau quãng thời gian 4 năm "dùi mài kinh sử", Đoàn Văn công Quân khu 4 đã đón ông như một người con quê hương xứ Nghệ sau bao năm "phiêu lãng" trở về! Và tại đây, cuộc đời sáng tác âm nhạc của ông đã thật sự sang trang mới. Ngoài sáng tác những ca khúc, nhạc sỹ Thái Quý chủ yếu dày công vào việc sáng tạo những hợp xướng, nhạc múa... Trong thời gian công tác ở Đoàn Văn công Quân khu 4, cùng với các nhạc sỹ Huy Du, Nguyên Nhung... nhạc sỹ Thái Quý đã để lại cho đoàn văn công quân đội miền Trung này nhiều tác phẩm âm nhạc đồ sộ, thật sự có giá trị nghệ thuật.

Hơn một phần tư thế kỷ trôi qua rất nhanh trong cuộc đời quân ngũ, những tìm tòi, sáng tạo, cống hiến... đã cho ông những kinh nghiệm quý báu và ước muốn về một "mảnh đất" để thể hiện khả năng.Vì vậy, nhạc sỹ Thái Quý lại một lần nữa chuyển sang môi trường mới, đó là công tác giảng dạy tại khoa sáng tác lý luận Trường Âm nhạc Huế vào năm 1980. Cũng chính từ thời gian này ông đã có điều kiện tiếp xúc với phong trào quần chúng. Và, những mô hình văn nghệ cơ sở mang tính chuyên nghiệp đã theo người nhạc sỹ tài hoa này lần lượt ra đời.

Rồi những ngày sôi động, đầy kỷ niệm trên đất Huế với ông cũng trôi qua rất nhanh. Chia tỉnh, ông lại "khăn gói" lên đường ra Quảng Bình (quê hương thứ hai của ông) với nhiệm vụ Trưởng đoàn ca múa nhạc của tỉnh. Với ông đó là mảnh đất đầy kỷ niệm về một thời trai trẻ... Có lẽ bởi những cảm xúc dồi dào ấy, nhiều bài hát mới lạ ra đời như: Nhật Lệ chiều, Chia tay phố nhỏ, Qua Đèo Ngang... đã đánh dấu đỉnh cao trong cuộc đời sáng tác ca khúc của người nhạc sỹ lãng tử này.

Phải! Đó là những thành công của một đời tìm kiếm, thử nghiệm và cả sự đánh đổi của người nghệ sỹ trước những hoàn cảnh, thử thách... Để cho đến hôm nay, thời gian đã trải qua hơn 40 năm sáng tác. Những hợp xướng hoành tráng, nhiều nhạc múa uyển chuyển và cả từng ca khúc trữ tình thấm đậm tình người... đâu đó, cứ âm vang lên trên các sân khấu chuyên nghiệp, phong trào ca hát VNQC như là sự minh chứng cho một niềm đam mê, khao khát từ thuở nhỏ trong trái tim ông. Và, cái tên nhạc sỹ Thái Quý cũng được người đời mến mộ cùng với những dòng chảy âm thanh ấy...

Huế, trung tuần tháng Chạp năm Nhâm Ngọ
N.T.T
(169/03-03)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nhạc: ĐỨC TÙNG
    Thơ:   HẠO NHIÊN

  • Với mục đích bảo tồn những vốn quí mà cha ông để lại và đặc biệt là sau khi Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại thì Nhã nhạc đã được chú ý hơn, nhưng cái đáng quan tâm hơn hết là vấn đề đi tìm lại những ‘mảnh vỡ” của một số bài bản Nhã nhạc đang lưu lạc ngoài dân gian nhằm mục đích khôi phục để trả nó về với môi trường diễn xướng nguyên thủy là chốn cung đình xưa. Tác phẩm Nhã nhạc “Thái Bình Cổ Nhạc” cũng là một trong những “mảnh vỡ” vừa được lập hồ sơ khoa học và báo cáo. 

  • LÊ MAI PHƯƠNG  

    Tuồng, loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc manh nha hình thành từ thế kỷ XIII dưới thời Trần. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) Tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa ở cung đình cũng như trong dân gian. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, Tuồng cũng mất đi môi trường diễn xướng, hiện nay đang có nguy cơ mai một dần.

  • HOÀNG TRỌNG CƯƠNG 

    Trong một số tài liệu về âm nhạc cung đình của những tác giả tiền bối, cây đàn bầu Việt Nam đã được dự đoán về niên đại ra đời của nó, về sự thăng trầm song hành cùng với chiều dài lịch sử dân tộc.

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Từ 10 năm nay Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco tôn vinh là một kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, là một danh hiệu rất lớn so với những danh hiệu sau này (Unesco đã bỏ chữ “kiệt tác” và thay thế chữ “của” bằng chữ “đại diện”), vì những lẽ đó mà việc bảo tồn và phát triển nhã nhạc Huế có phần khó khăn.

  • HÀN NHÃ LẠC

    Có lẽ hiện giờ ở Huế, không có ai cảm chơi ca Huế được như nhà văn Bửu Ý. Ông thường nói cái hay của ca Huế, nghe hay đến nhức xương. Và ngay từ khi vợ ông, cô Lợi còn sống, mỗi thứ bảy, gia đình ông lại tổ chức nghe ca Huế nhức xương một buổi.

  • Sau khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, âm nhạc cung đình cũng mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, do đó loại hình nghệ thuật này đã theo chân các nghệ nhân cung đình lan tỏa về với dân gian, tác động vào nghệ thuật dân gian trên nhiều vùng văn hóa trong cả nước. 

  • TRỌNG BÌNH

    Nghệ thuật Múa Cung đình Huế mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Trong múa cung đình, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt, điển hình là các điệu: lục cúng hoa đăng, trình tường tập khánh, phụng vũ, tứ linh, vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...

  • VÕ QUÊ

    Dân tộc Việt Nam do hoàn cảnh địa lý và các điều kiện khách quan khác đã có một nền văn hóa đa dạng, trong đó bộ môn Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau.

  • (SHO) Ca sĩ Hà Thanh vừa mất lúc 7g27 đêm 1-1 (giờ địa phương, tức sáng 2-1 giờ VN) tại TP Boston, tiểu bang Massachusetts (Mỹ) sau thời gian mắc bệnh ung thư máu.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Văn Giảng, con người của những nốt nhạc mơ mộng chân nhiên nơi miền non nước Hương Bình đã dấn thân trong miền giao cảm của nước, của sông, của tiếng chuông chùa ngân vọng để viết nên những ca khúc bất hủ Ai về sông Tương, Đôi mắt huyền, Từ Đàm quê hương tôi... tô vẻ thêm cho tiếng lòng vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Ở Huế có câu hò nổi tiếng tới mức không người Huế nào không được nghe, không du khách nào không từng một lần thưởng thức:

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Theo dòng chảy của lịch sử, Ca Huế giờ đây không còn là sản phẩm phục vụ riêng cho một tầng lớp nhất định trong xã hội: giới quý tộc. Cùng với xu hướng xã hội hóa, hiện nay loại hình nghệ thuật này nghiễm nhiên gần gũi hơn với công chúng Huế nói riêng và du khách thập phương nói chung.

  • TRỌNG BÌNH - QUÝ CÁT  

    Nền âm nhạc cổ truyền nói chung và Âm nhạc cung đình Việt Nam nói riêng từ xa xưa đã có một kiểu chữ nhạc riêng dùng để ký âm, ghi chép thành văn bản tất cả các bài bản để lưu truyền qua nhiều thế hệ...

  • HỒ THẾ HÀ

    Năm con rồng Nhâm Thìn (2012), Mai Xuân Hòa tròn 82 tuổi đời và nếu tính từ ngày anh tham gia học lớp âm nhạc ngắn hạn đầu tiên năm 1956, trước khi chính thức học ở trường Âm nhạc Việt Nam (1958 - 1962) thì anh đã có 56 tuổi nghề âm nhạc.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Huế - theo dòng chảy của thời gian, đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử; âm nhạc Huế cũng không nằm ngoài “luồng” của dòng chảy đó.

  • MAI XUÂN HÒA (Thơ: Nguyễn Tất Thịnh)

    Phải chăng em là gió/ phải chăng em là mây/ Gió nghiêng chao nhè nhẹ/ mây bồng bềnh bay bay…

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản”.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.