Cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Sông Hương - những gặt hái nghệ thuật và sức hút từ miền cố xứ

09:45 11/04/2025
LÊ THANH NGA

1. Cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Sông Hương năm 2024 đã khép lại. Ban Tổ chức đã chọn được vào Sơ khảo 63 tác phẩm dự thi đến từ nhiều vùng, miền. Điều này cho thấy sức hấp dẫn, uy tín của giải, uy tín của Tạp chí cũng như uy tín của văn học nghệ thuật vùng đất Cố đô Huế. Đây cũng là chỉ dấu đầu tiên cho thấy sự thành công của giải lần này. Với độ dài thời gian một năm, cuộc thi là cánh cửa rộng mở để các tác giả có nhiều cơ hội thăm dò trữ năng của mình. Số lượng 63 tác phẩm là minh chứng cho điều đó. Và số lượng tác phẩm cũng cho thấy truyện ngắn vẫn là thể loại giàu tiềm năng, có sức thu hút. Ở đó, có nhiều tác giả muốn thử sức, muốn bộc lộ, khát khao khẳng định, khát khao cống hiến. Sự góp mặt của đông đảo đội ngũ tác giả cũng làm nên bức tranh truyện ngắn đa hương, đa sắc, với những phong cách có tương đồng, có dị biệt, một số cây bút ít nhiều thể hiện được cá tính, bản sắc.

2. Điều dễ nhận thấy nhất là phần lớn các tác phẩm đều đi sâu khai thác vẻ đẹp của hiện thực đời sống, của văn hóa, lịch sử và con người xứ Huế. Trước hết vẫn là vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng, với những con đường đầy hoa nắng, với những cơn mưa buồn nhớ xa xăm, với những đầm phá sông ngòi, cù lao và biển... Cùng với đó là một xứ Huế thần kinh xưa cũ, được gọi lại trong từng khoảnh khắc của hiện tại - nơi tác giả lắng mình trong một phút bừng ngộ nào đó về những nỗi niềm quá vãng xa xưa; nơi có những đền đài u tịch; những bức tường thành lan man chạy trong tiếng dạ của một thiếu nữ đức hạnh. Đấy là thế giới của những điệu Nam Ai, Nam Bình, của những khúc nhã nhạc, của những cuộc binh đao, của phận người từ bậc quyền quý đến bình dân thấp bé, biết bao thân phận, biết bao nỗi niềm, những hạnh phúc và tan vỡ của tình yêu, nỗi hồi sinh sau từng chết chóc.

Đêm rằm tháng bảy của Thảo Giang kể về những mối tình dở dang. Thực ra sự dở dang của cả hai mối tình đều quen thuộc, không có gì đặc sắc. Cái đặc sắc là ở chỗ không phải hai người trẻ trở lại với nhau, mà cô gái đã bắc nhịp cầu cho hai người già. Truyện lấy bối cảnh đêm rằm tháng bảy ngụ ý nói về lòng hiếu thảo, nhưng ý nghĩa của nó đi xa hơn, đánh thức lòng nhân văn, đánh thức những giá trị nhân bản. Huế - Réunion của Bảo Thương kể về hành trình tìm lại quê hương nguồn cội, tìm lại các giá trị Huế của một người con tha hương, có gốc gác hoàng tộc. Cốt truyện nhẹ nhàng, nhiều bí ẩn, mở ra nhiều khoảng lặng để người đọc ngẫm ngợi. Bản sắc Huế được thể hiện khá rõ nét. Dấu hiệu hậu hiện đại thể hiện trong cấu tứ, trong chi tiết và trong lối kể chậm rãi, giọng điệu đều đều trầm lặng. Ngôn ngữ có bản sắc. Nếu chọn một tác phẩm viết về Huế một cách đâm đặc nhất, theo một lối đi riêng trên chính nền cảnh Huế quen thuộc, có lẽ phải kể đến Dạ quỳnh (Lê Vi Thủy). Với nguồn cảm hứng bắt đầu từ nghề thêu - một nghề có truyền thống lâu đời và đã ghim vào văn hóa Huế như một thứ đặc sản trên cả hai bình diện vật thể và phi vật thể, Lê Vi Thủy dẫn người đọc đến với một không gian đậm đặc Huế trong một cốt truyện xuyên không với vô vàn chi tiết thực hư trộn lẫn, tạo ấn tượng nhất vẫn là sự am hiểu một cách sâu sắc về thêu thùa - một thứ công việc góp phần quan trọng làm nên cái nhẫn nại, cái dịu dàng của xứ Huế, của người con gái Huế - xứ sở của những trang phục long phụng, của những “Thất sư hý cầu”, “Đêm trăng Vỹ Dạ” hay “Bộ kinh kim cương”... Và, thú thật là tôi rất có thiện cảm với cách tiếp cận Huế của Nhảy qua bóng mình (Lê Vũ Trường Giang). Không có đền đài, không có lăng tẩm, không sông Hương núi Ngự, Nhảy qua bóng mình mở ra không gian Bạch Mã, trong cái nhìn của ngày nay, và bằng liên văn bản, mở ra cả không gian xa xưa, huyễn hoặc, hư ảo và ly kỳ, trong một kết nối tự nhiên. Chính từ lựa chọn ấy mà tác phẩm có những dòng viết khá giàu kinh nghiệm trong việc tạo nên một bức tranh hoang sơ liêu tịch, như một bờ tiền sử1, rất phù hợp để kết nối hiện tại với huyền thoại xa xưa: “Những bông lau đã nở trắng, mùa chim động, biển xanh, những bọt sóng vỗ dưới chân đèo và sương mù. Từ lâu, Bóng khao khát rừng xanh như con nai thèm cỏ mùa khô, chỉ vì tôi đã giam lỏng, dẫu biết Bóng bức bối nơi bìa lú khốn khổ. Bóng bám theo chiếc xe chạy lòng vòng qua những con đường cong. Hôm đó màu nước ánh lên sắc bạc của chút nắng kiêu hãnh tưới lên gương mặt rất đậm của biển. Gió từng hồi đùn nhau như muốn leo lên tới đỉnh núi. Dãy Bạch Mã hiên ngang cứ xoải chân trước thách thức từng bọt sóng. Và mớ tóc rối bù không đội mũ bảo hiểm của em, dường như cũng muốn thách thức cả núi (...). Em hỏi tôi tại sao núi lại có tên là Bạch Mã. Bóng có biết không nhỉ, nhưng mà tôi biết đấy. Bạch Mã có mối lương duyên thuần khiết với mây, đến cái tên gọi cũng bắt nguồn từ những áng mây quanh năm quần vũ trên chóp núi. Tích xưa kể rằng...”. Ngoài ra, một vài tác phẩm, với tọa độ khởi đầu là Huế, mở ra một không gian nửa bên kia trái đất, là nước Pháp hay Algeria..., nơi có những mối quan hệ chặt chẽ với Huế, về văn hóa, về lịch sử và cả con người (Những đôi mắt giấu mình trong đêm, Huế - Réunion...). Tôi không biết người viết đang sống ở Việt Nam hay nước ngoài, và đó có phải là vùng hiện thực quen thuộc của họ không, nhưng, mang đến cho thế giới truyện ngắn dự thi những không gian ấy đồng nghĩa với việc mang đến một cái khác. Đấy là điều cần thiết cho một cuộc thi văn chương mà phần lớn tác phẩm đều hướng đến một hiện thực đã ổn định, nhiều khi gây cảm giác nhàm chán.

3. Viết về thiên nhiên, về những trầm tích văn hóa Huế, nhiều tác phẩm cũng nỗ lực miêu tả, khái quát về con người Huế. Dưới ngòi bút của các tác giả, con người xứ Huế hiện lên khá sinh động, chân thật dù rằng chưa thực sự phong phú. Trước hết, đó là những con người lam lũ, chịu khó, phần nhiều gắn với sông biển, đầm phá... (dĩ nhiên, nếu viết về con người phố thị thì thật khó để mô tả cái nhọc nhằn lam lũ, cái nghèo khốn, và vì thế, khó để làm bật nổi được tình người với những trắc ẩn, yêu thương). Tôi nhớ hình ảnh con người lam lũ, vật vạ trong thiên tai cũng từng xuất hiện khá phổ biến trong nhiều tác phẩm tham gia cuộc thi thơ trên Tạp chí Sông Hương năm 2023. Đấy là một lão ngư với cái - gọi - là - mái - nhà (tôi nhấn mạnh), là một thiếu nữ lớn lên trong mặc cảm của đói nghèo, của thân phận quá lứa lỡ thì hay con thêm vợ lẽ... Nhưng, điều mà các tác giả cố tình nhấn mạnh không chỉ là chỗ đó. Dường như mỗi cây bút, với những tầm mức khác nhau, đều cố gắng khắc họa hình tượng con người nơi đây với những phẩm hạnh truyền thống, cố hữu. Người Huế ở đây không phóng khoáng, không hào sảng, họ “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng luôn đong đầy yêu thương, họ sẵn sàng mở lòng giúp đỡ, cứu vớt những người cùng đường tuyệt lộ, nhưng là sự giúp đỡ lặng lẽ, trong một thứ tình thương lặng lẽ, đôi khi dè dặt, đôi khi âm thầm. Vì thế, ở những con người này, người ta không nhìn thấy những ồn ào của kiếm khách hay hiệp sĩ. Họ là biểu tượng tính cách của người Huế: khiêm nhường, điềm đạm, nhẫn nại trong cả việc hành hiệp trượng nghĩa. Đấy là ông Dự của Những dòng sông miên man chảy; là lão Thới của Bắc một nhịp cầu; là lão ngư trong Sứ mệnh của sóng. Phải nói rằng, viết về tình người xứ Huế, có một số truyện khiến lòng người cảm động.

Nhưng con người xứ Huế không chỉ cần cù, không chỉ đầy chung thủy, yêu thương và trắc ẩn như những ví dụ về tính cách, đạo hạnh. Họ còn là những người lãng mạn. Chẳng thế mà những câu chuyện về tình yêu, những câu chuyện về các nghệ sĩ được kể một cách say sưa và những trăn trở về nghệ thuật cũng thể hiện bởi không ít cây bút. Nhưng đây là một chủ đề khó, có lẽ dành để nói sau. Phổ biến, dễ chịu và khó chịu nhất vẫn là những mối tình. Dễ chịu bởi chúng mang đến thế giới nghệ thuật của tập hợp tác phẩm một không khí lãng mạn bay bổng, và trẻ. Còn khó chịu? Bởi hình như nhiều tác giả vẫn chưa thoát khỏi sự trì níu của quá khứ. Những câu chuyện tình với nội dung khá quen thuộc, vẫn là ngang trái do lễ giáo, do hiểu nhầm, vẫn là sinh ly tử biệt do chiến tranh, do một điều gì đó ngẫu nhiên vụng về, thậm chí, có khi, tác giả muốn làm mới câu chuyện bằng việc bổ sung một tình huống khác lạ, thì lại là tình huống hết sức khiên cưỡng... Ở khu vực này, sự phân định giá trị chủ yếu căn cứ vào cách hành văn. Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa là phủ nhận tất cả. Vẫn có những truyện lóe sáng bằng một thứ tình huống và lối viết đầy sự say mê và sáng tạo, nhất là những truyện được viết theo phong cách hiện đại, hậu hiện đại.

Và còn đó một con người xứ Huế với tinh thần gia trưởng. Những trải nghiệm văn hóa và cả đời sống mách bảo ta rằng các tác giả hoàn toàn không có gì nhầm lẫn về điều này. Một xứ sở đã từng tôn nghiêm bởi là kinh đô của cả nước, bởi những gia đình công hầu khanh tướng, và lễ giáo là một thứ gì đó chảy thường xuyên trong huyết mạch mỗi người, thì sức sống của tinh thần gia trưởng (cho dù đôi khi có vẻ không còn hợp thời nữa) cũng không hẳn là cái gì trái với lẽ thường. Chính tinh thần gia trưởng đã níu kéo được những đổ vỡ nhưng cũng chính tinh thần gia trưởng đã gây nên đổ vỡ. Tôi hiểu tinh thần gia trưởng đậm đặc như một nét tính cách văn hóa đặc hữu của nơi này (Từ đường - Lệ Hằng, Đêm rằm tháng bảy - Thảo Giang, Thánh vật - Mạc Yên...) Tất nhiên, với bản chất đa nghĩa của các văn bản nghệ thuật, tôi hiểu rằng một vài tác phẩm trong đó không chỉ nói về tinh thần gia trưởng, mà là một cái gì đó sâu xa hơn nữa, như là thói mụ mị trước thần tượng hay sự nô thuộc vào quá khứ... Riêng điểm này, tôi chú ý nhiều đến Thánh vật.

4. Từ một góc nhìn khác, có thể nhận thấy các nhóm đề tài chính được đề cập trong 63 tác phẩm gồm: đề tài về văn hóa, đề tài về đời sống và con người trong tính chất hiện thực của nó, đề tài quá khứ (bao gồm cả những truyện hư cấu có liên quan đến Huế) và đề tài chiến tranh, đề tài về nghệ thuật với nghệ sĩ (dĩ nhiên đây chỉ là sự phân loại tương đối và tên gọi các đề tài cũng chỉ mang tính chất ước định). Ở mỗi đề tài, đều có thể “chỉ mặt”, “gọi tên” các tác phẩm ưu trội hơn, và có những đóng góp thực sự. Viết về đời sống đương đại, tôi đặc biệt chú ý đến một số tác phẩm mà ở đó, người viết đã thoát khỏi những ám ảnh về nội dung và tiêu chí ưu tiên của cuộc thi, để trình hiện những suy tư mãnh liệt về đời sống trên tinh thần của cái phi lý, nỗi cô đơn, tình trạng lưu đày của con người trong lối viết nghiêng về hiện đại hay hậu hiện đại. Nhảy qua bóng mình (Lê Vũ Trường Giang) như một cuốn sách tập hợp một liên văn bản, của huyền thoại, của cổ tích, của văn chương, triết học và âm nhạc, của phương Đông và phương Tây, của thiên tạo và nhân tạo trong một đối thoại không rõ hình hài, như một trò chơi vô tăm tích; Vết sẹo (My Tiên) viết về một hạnh phúc mong manh, trong một cuộc tình mong manh, lý tưởng và bí ẩn với những khoảng cách vời vợi ngăn cách những khát vọng chia sẻ. Thông qua những giấc mơ, tai ương và khoảng cách, truyện còn là cuộc kiếm tìm bản thể con người, kiếm tìm mục đích cuối cùng và sứ mệnh đích thực của nghệ thuật. Truyện viết hiện đại, yếu tố kỳ ảo, giấc mơ được sử dụng đắc địa ngoài việc tạo nên độ hấp dẫn của tình huống và không gian truyện còn, và quan trọng hơn là nhấn mạnh trạng thái vô thường của thế giới và nỗi cô đơn, lưu đày của con người. Đò nước chiều hôm (Đinh Thành Trung) kể về kiếp sống vạ vật của những người lao động nghèo khó nhưng chân chính - những thân phận bên lề theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Nhưng họ hào hiệp và ấm áp tình người. Truyện cũng nói về nghệ thuật và bản lĩnh sống bằng đam mê. Không có cốt truyện mạch lạc, chỉ là những dòng viết tưng tửng, khô khốc rất đời nhưng giấu sau đó, giấu trong đó là những nỗi niềm khiến người ta cảm động, những câu hỏi thật khó trả lời. Rốt cuộc người ta sống vì cái gì? Người ta sống vì lẽ gì? Đời người, sinh mệnh nghệ thuật, những ước mơ, những giá trị... sẽ đi về đâu. Cái kết khá bất ngờ và mở ra khoảng trắng mênh mông để người đọc tiếp tục suy tư. Nanh rắn (Lê Quang Trạng) viết về chủ đề văn hóa truyền thống trên cơ sở miêu tả những kỳ bí xa lạ của núi rừng, về nguy cơ tàn phai, tuyệt tích của văn hóa các tộc người bởi sự xâm lấn của nền văn minh hiện đại, và cả của những ham mê danh vọng, mặt trái của khát vọng nghệ thuật khi tác động một cách tàn nhẫn lên đời sống, nhất là đời sống tinh thần nguyên sơ của các tộc người.

Những truyện viết về quá khứ cũng chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong cuộc thi này. Có những truyện được xây dựng như những huyền thoại (Truyền thuyết phượng hoàng - Nguyễn Anh Tuấn, Nguyệt quế hoa - Ngô Tú Ngân...), có những truyện bắt đầu từ một nhân vật, một sự kiện lịch sử (Ức cố nhân - Trần Quỳnh Nga, Sóng gió quan trường - Nguyễn Anh Tuấn, Lửa Hoàng Nghiêu - Mai Xuân Thắng...). Đây là một đề tài khó. Văn chương hiện đại viết về lịch sử không chỉ thuần túy là việc kể lại một câu chuyện lịch sử, mà nó phải đối thoại với lịch sử hoặc gợi nghĩ về hiện tại trong sự tôn trọng tính chính xác của những sự kiện lịch sử - dù người viết có thể sáng tạo, bổ sung những nét về tính cách, phẩm hạnh, ngôn ngữ, suy tư của nhân vật. Khó, vì đã có một số tác giả viết rất thành công ở đề tài này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Sơn Minh, Uông Triều... Bởi thế mà không nhiều tác phẩm của cuộc thi, viết về quá khứ, có thể đáp ứng tầm đón đợi của công chúng hôm nay. Tôi ấn tượng mạnh với Ức cố nhân, nơi xuất hiện một Nguyễn Trãi cô đơn, một nhà khảo cổ cô đơn với những suy tư về giá trị trong cốt truyện song tuyến với kỹ thuật viết khá điêu luyện.

Chiến tranh, cho đến nay, cụ thể là với cuộc thi này, vẫn là đề tài nóng. Tất nhiên đại đa số các cây bút đã có ý thức viết về chiến tranh không để ngợi ca, mà là để đau đớn về nó. Nhưng đây cũng không phải là điều mới mẻ, thế nên có cảm giác như người viết vẫn chủ yếu đi vào một con đường rất quen thuộc mà cả đội ngũ người viết và đông đảo công chúng đã nhiều lần đi qua. Trong không khí ấy, Người lính trở về của Nguyễn Ngọc Lợi và Tháng ba hoa gạo đỏ của Vi Hợi có thể coi là những tác phẩm có một cách tiếp cận đề tài khác với phần còn lại với lối viết “có nghề”.

Có đến 63 tác phẩm của 63 tác giả được chọn vào vòng sơ khảo, nhưng, như đã nói, hình như đại đa số tác giả tự giới hạn mình trong những yêu cầu (chắc chắn là chỉ có tính chất tương đối - như một tiêu chí ưu tiên) của cuộc thi, nên chủ đề, đề tài chưa thực sự phong phú. Thú thật, với những người đọc chuyên nghiệp, có lẽ sẽ không thực sự tìm được khoái cảm thẩm mỹ trong những loạt truyện say sưa với tình yêu (trong một mô típ khá chung là tan vỡ do hiểu nhầm, do chiến tranh, do không được sự đồng ý của hai gia đình), về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực, với công chúng, về lịch sử, về chiến tranh với sự trình hiện một lối viết thiếu sức sống của sự bứt phá... Chọn một nội dung để được ưu tiên hay chọn một lối khác để trình hiện chính mình quả là thử thách khắc nghiệt dành để kiểm chứng bản lĩnh của ngòi bút tác giả.

5. Nhưng dù sao, cũng không thể phủ nhận rằng, cuộc thi đã thu hút được ít nhiều cây bút có bản lĩnh. Đó là những người đã mạnh dạn thoát ly những ràng buộc nói trên, để tìm kiếm những chủ đề, những đề tài, những vùng hiện thực ngoài Huế, ngoài chiến tranh, ngoài quá khứ, ngoài những câu chuyện tình yêu và thân phận gắn với một hiện thực cụ thể. Họ đặt mình trong vùng thẩm mỹ nóng bỏng của hiện tại và cảm nhận được một cách sâu sắc tình thế của con người trong hiện tại, của sự tồn - tại - trong - thế giới. Họ cảm thấy được, đánh giá được về nỗi hoang mang của con người trong một thế giới tẻ nhạt, quẩn quanh, vô vị, phi lý, thường trực đối diện với nỗi lưu đày và cái chết. Họ không nhốt chặt con người của mình trong cái chật hẹp của cuộc mưu sinh, của những tranh chấp về vật chất hay những cuộc ẩu đả về tinh thần. Con người trong sáng tác của họ, tất thảy đều là nạn nhân và mãi mãi đều là kẻ thất bại. Đấy chính là sự khái quát chính xác về tình thế sống của con người hiện đại. Với cảm quan hiện đại và hậu hiện đại ấy về con người, các tác giả cũng trình hiện những lối viết mang đến những khoái cảm về cái mới, cái lạ của văn xuôi. Các thủ pháp như sử dụng kỹ thuật dòng ý thức, giấc mơ, huyền thoại hóa, phi logic hóa, miêu tả cái vắng mặt được sử dụng cơ bản nhuần nhuyễn và có thể thấy rõ hiệu quả nghệ thuật của chúng.

6. Khắc nghiệt là từ có thể dùng cho mọi cuộc đua. Cũng như những cuộc thi khác, cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Sông Hương sẽ khép lại, với những niềm vui nỗi buồn. Nhưng vui buồn vốn dĩ là nghiệp của người cầm bút. Điều quan trọng là, từ đây, sẽ có những tài năng mới được phát hiện. Nhưng những tài năng mới được phát hiện ấy có đủ nội lực và đam mê để tiếp tục hành trình? Cũng có người sẽ phát hiện lại chính mình và biết mình đang ở đâu trên con lộ văn chương. Tất cả những gặt hái nghệ thuật hay thành tựu bị bỏ lỡ đều để lại ấn tượng trong công chúng, giúp họ có một đời sống mới hơn, dù là trường cửu hay chỉ là khoảnh khắc.

L.T.N
(TCSH56SDB/03-2025)

-----------------------
1 Chữ dùng của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
  • Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm vừa ban hành Quy chế về hoạt động giám định tác phẩm mỹ thuật - tác phẩm nhiếp ảnh. Quy chế này có hiệu lực từ ngày 1-10-2018 với yêu cầu 100% hội đồng tán thành mới đi đến kết luận cuối cùng về tác phẩm được giám định là thật hay giả…

  • Ngày 15/10, tại Hà Nội, Bộ VHTTDL đã tổ chức cuộc họp nhằm chuẩn bị cho phiên họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú (NSND, NSƯT) và danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú (NNND, NNƯT) năm 2018.

  • Nghệ thuật truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc… đang kêu cứu, vì người xem ngày càng giảm, người theo nghề ngày càng hiếm. Hiện nghệ thuật truyền thống dân tộc đang thiếu hụt trầm trọng lực lượng thay thế trên tất cả các lĩnh vực, như diễn viên, nhạc công, biên kịch, đạo diễn…

  • Từ góc nhìn của nhà quy hoạch, Giám đốc SLAB, Đại học Nam California (Mỹ), GS. Annette Kim cho rằng, vỉa hè đa chức năng là một phần tạo nên thành phố sôi động, bền vững, đóng góp vào sinh hoạt cộng đồng.

  • Kết thúc loạt bài này, chúng tôi mong muốn, những nhận thức về văn hóa ngày càng hoàn thiện tiến gần đến giá trị cốt lõi nhất của văn hóa: Hình thành nhân cách con người và cốt cách của một dân tộc, trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng để đất nước phát triển bền vững.

  • Hiện nay, nguy cơ mai một giá trị truyền thống làng xã rất lớn, ở cả chiều rộng và chiều sâu. Việc bảo tồn các giá trị di sản trong quá trình quy hoạch không gian kiến trúc làng không thể chậm trễ và trì hoãn. Trong đó, bảo tồn thích ứng và phát triển tiếp nối là phương thức mà giá trị tinh thần của di sản được kế thừa, hoàn thiện.

  • Chỉ đạo nghệ thuật được ví như người giữ lửa, bảo đảm khuynh hướng nghệ thuật, phong cách sáng tạo của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều nhà hát của Hà Nội đang thiếu đội ngũ chỉ đạo nghệ thuật tài năng, chuyên nghiệp, dẫn tới sáng tạo ít mang tính đương thời, chưa có nhiều tác phẩm đỉnh cao có thể cạnh tranh với các loại hình nghệ thuật khác.

  • Mặt nạ giấy bồi, đèn kéo quân, tàu thủy sắt tây... từng mang lại niềm vui cho biết bao đứa trẻ mỗi độ Tết Trung thu. Nhưng trước sự phát triển của xã hội, những món đồ chơi truyền thống này liệu có cần thay đổi để đáp ứng thị hiếu trẻ nhỏ “thời 4.0”?

  • Vài năm trở lại đây, thị trường sách thiếu nhi trong nước đã có những chuyển biến với nhiều tín hiệu khởi sắc, nhưng vẫn cần nhiều cú hích để thực sự ổn định.

  • Dù trẻ con ngày nay ít còn chơi đèn kéo quân nữa, nhưng mỗi mùa Trung thu đến, gần ngày rằm tháng 8, nghệ nhân Vũ Văn Sinh lại cặm cụi làm những chiếc đèn truyền thống để giữ nghề, hoài niệm tuổi thơ và tưởng nhớ tổ tông.

  • Năm 2018, cải lương đánh dấu sự xuất hiện đúng 100 năm trên mảnh đất Nam bộ. Ngoài vở diễn “Thầy Ba Đợi” tri ân người khai sáng bộ môn nghệ thuật này, bộ phim “Song Lang” cũng ra mắt công chúng để góp thêm tình yêu cho khán giả hôm nay đối với loại hình sân khấu độc đáo trong tâm thức cư dân mở đất. Con đường đã qua của cải lương rất nhiều thành tựu, nhưng con đường phía trước của cải lương cũng không ít thử thách!

  • Dù còn nhiều khó khăn nhưng giới bạn đọc đang dần tiếp cận và sử dụng những sản phẩm trong cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 để có thể thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin hữu ích. 

  • Vùng đất phía Tây Hà Nội còn nhiều ngôi đình làng là biểu tượng của vùng xứ Đoài, với những giá trị đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc. Tuy nhiên, hiện nay, các ngôi đình này đối diện với nguy cơ xuống cấp và bị hủy hoại. Đã có rất nhiều công trình bị “trùng tu như phá”, gần đây nhất là tại đình Lương Xá, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa.

  • Mong muốn nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn lại các nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam, ngày 8-8, Ỷ Vân Hiên với đội ngũ các bạn trẻ chuyên nghiệp, có kiến thức chuyên môn cùng với lòng nhiệt thành, sức sáng tạo mạnh mẽ đã ra mắt tại Hà Nội.

  • Trong 6 tháng đầu năm 2018, ngành xuất bản đã gây được tiếng vang trong xã hội với nhiều cuốn sách có nội dung tốt, mang tính thời sự... Số lượng xuất bản phẩm vi phạm về nội dung có giảm so với cùng kỳ năm 2017 nhưng vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để.

  • Tiếp bước sự sáng tạo với sơn mài của các bậc thầy thời kỳ hội họa Đông Dương, ngày nay nghệ thuật sơn mài đương đại vẫn kế thừa và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả nghệ thuật, nhiều sáng tạo cũng gây tranh luận.

  • Tính đến thời điểm này, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. Thế nhưng, bên cạnh niềm vinh dự thì những danh hiệu cũng đang tạo ra nhiều sức ép không nhỏ với các nhà quản lý văn hóa trong công tác quảng bá, bảo tồn và phát triển.

  • Tuồng là môn nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, cũng giống như những loại hình nghệ thuật truyền thống khác, tuồng đang đứng trước nguy cơ mai một. Ở đó việc bảo tồn để duy trì và phát triển nghệ thuật tuồng đang là “bài toán” không dễ gì tìm được câu trả lời thấu đáo.

  • “Ok (đồng ý) hay không thì mày nhớ confirm (xác nhận) cho người ta nha”; “giao đứa nào set up (sắp xếp) vụ này ngay và luôn đi chứ hứa rồi bỏ đó không hà”; “go now (đi ngay), mà free (miễn phí) thiệt hả?”; “nay được ở nhà full (cả) ngày”… Đó là vài trong số những câu Tây không ra Tây, ta chẳng ra ta mà giới trẻ Việt đang sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.

  • Mùa World Cup 2018 đang đến những giờ phút cao trào của xúc cảm trong lòng người hâm mộ môn thể thao “vua”. Mỗi trận đấu mang lại nhiều cung bậc tình cảm: hân hoan, hào hứng, thất vọng, buồn khổ... theo từng đường bóng. Trong làng văn cũng có rất nhiều người hâm mộ đang cuồng nhiệt cổ vũ cho đội bóng mình yêu thích, thành thật khóc - cười sau mỗi trận bóng, và cuối cùng là đặt bút... làm thơ.