1. Cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Sông Hương năm 2024 đã khép lại. Ban Tổ chức đã chọn được vào Sơ khảo 63 tác phẩm dự thi đến từ nhiều vùng, miền. Điều này cho thấy sức hấp dẫn, uy tín của giải, uy tín của Tạp chí cũng như uy tín của văn học nghệ thuật vùng đất Cố đô Huế. Đây cũng là chỉ dấu đầu tiên cho thấy sự thành công của giải lần này. Với độ dài thời gian một năm, cuộc thi là cánh cửa rộng mở để các tác giả có nhiều cơ hội thăm dò trữ năng của mình. Số lượng 63 tác phẩm là minh chứng cho điều đó. Và số lượng tác phẩm cũng cho thấy truyện ngắn vẫn là thể loại giàu tiềm năng, có sức thu hút. Ở đó, có nhiều tác giả muốn thử sức, muốn bộc lộ, khát khao khẳng định, khát khao cống hiến. Sự góp mặt của đông đảo đội ngũ tác giả cũng làm nên bức tranh truyện ngắn đa hương, đa sắc, với những phong cách có tương đồng, có dị biệt, một số cây bút ít nhiều thể hiện được cá tính, bản sắc.
2. Điều dễ nhận thấy nhất là phần lớn các tác phẩm đều đi sâu khai thác vẻ đẹp của hiện thực đời sống, của văn hóa, lịch sử và con người xứ Huế. Trước hết vẫn là vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng, với những con đường đầy hoa nắng, với những cơn mưa buồn nhớ xa xăm, với những đầm phá sông ngòi, cù lao và biển... Cùng với đó là một xứ Huế thần kinh xưa cũ, được gọi lại trong từng khoảnh khắc của hiện tại - nơi tác giả lắng mình trong một phút bừng ngộ nào đó về những nỗi niềm quá vãng xa xưa; nơi có những đền đài u tịch; những bức tường thành lan man chạy trong tiếng dạ của một thiếu nữ đức hạnh. Đấy là thế giới của những điệu Nam Ai, Nam Bình, của những khúc nhã nhạc, của những cuộc binh đao, của phận người từ bậc quyền quý đến bình dân thấp bé, biết bao thân phận, biết bao nỗi niềm, những hạnh phúc và tan vỡ của tình yêu, nỗi hồi sinh sau từng chết chóc.
Đêm rằm tháng bảy của Thảo Giang kể về những mối tình dở dang. Thực ra sự dở dang của cả hai mối tình đều quen thuộc, không có gì đặc sắc. Cái đặc sắc là ở chỗ không phải hai người trẻ trở lại với nhau, mà cô gái đã bắc nhịp cầu cho hai người già. Truyện lấy bối cảnh đêm rằm tháng bảy ngụ ý nói về lòng hiếu thảo, nhưng ý nghĩa của nó đi xa hơn, đánh thức lòng nhân văn, đánh thức những giá trị nhân bản. Huế - Réunion của Bảo Thương kể về hành trình tìm lại quê hương nguồn cội, tìm lại các giá trị Huế của một người con tha hương, có gốc gác hoàng tộc. Cốt truyện nhẹ nhàng, nhiều bí ẩn, mở ra nhiều khoảng lặng để người đọc ngẫm ngợi. Bản sắc Huế được thể hiện khá rõ nét. Dấu hiệu hậu hiện đại thể hiện trong cấu tứ, trong chi tiết và trong lối kể chậm rãi, giọng điệu đều đều trầm lặng. Ngôn ngữ có bản sắc. Nếu chọn một tác phẩm viết về Huế một cách đâm đặc nhất, theo một lối đi riêng trên chính nền cảnh Huế quen thuộc, có lẽ phải kể đến Dạ quỳnh (Lê Vi Thủy). Với nguồn cảm hứng bắt đầu từ nghề thêu - một nghề có truyền thống lâu đời và đã ghim vào văn hóa Huế như một thứ đặc sản trên cả hai bình diện vật thể và phi vật thể, Lê Vi Thủy dẫn người đọc đến với một không gian đậm đặc Huế trong một cốt truyện xuyên không với vô vàn chi tiết thực hư trộn lẫn, tạo ấn tượng nhất vẫn là sự am hiểu một cách sâu sắc về thêu thùa - một thứ công việc góp phần quan trọng làm nên cái nhẫn nại, cái dịu dàng của xứ Huế, của người con gái Huế - xứ sở của những trang phục long phụng, của những “Thất sư hý cầu”, “Đêm trăng Vỹ Dạ” hay “Bộ kinh kim cương”... Và, thú thật là tôi rất có thiện cảm với cách tiếp cận Huế của Nhảy qua bóng mình (Lê Vũ Trường Giang). Không có đền đài, không có lăng tẩm, không sông Hương núi Ngự, Nhảy qua bóng mình mở ra không gian Bạch Mã, trong cái nhìn của ngày nay, và bằng liên văn bản, mở ra cả không gian xa xưa, huyễn hoặc, hư ảo và ly kỳ, trong một kết nối tự nhiên. Chính từ lựa chọn ấy mà tác phẩm có những dòng viết khá giàu kinh nghiệm trong việc tạo nên một bức tranh hoang sơ liêu tịch, như một bờ tiền sử1, rất phù hợp để kết nối hiện tại với huyền thoại xa xưa: “Những bông lau đã nở trắng, mùa chim động, biển xanh, những bọt sóng vỗ dưới chân đèo và sương mù. Từ lâu, Bóng khao khát rừng xanh như con nai thèm cỏ mùa khô, chỉ vì tôi đã giam lỏng, dẫu biết Bóng bức bối nơi bìa lú khốn khổ. Bóng bám theo chiếc xe chạy lòng vòng qua những con đường cong. Hôm đó màu nước ánh lên sắc bạc của chút nắng kiêu hãnh tưới lên gương mặt rất đậm của biển. Gió từng hồi đùn nhau như muốn leo lên tới đỉnh núi. Dãy Bạch Mã hiên ngang cứ xoải chân trước thách thức từng bọt sóng. Và mớ tóc rối bù không đội mũ bảo hiểm của em, dường như cũng muốn thách thức cả núi (...). Em hỏi tôi tại sao núi lại có tên là Bạch Mã. Bóng có biết không nhỉ, nhưng mà tôi biết đấy. Bạch Mã có mối lương duyên thuần khiết với mây, đến cái tên gọi cũng bắt nguồn từ những áng mây quanh năm quần vũ trên chóp núi. Tích xưa kể rằng...”. Ngoài ra, một vài tác phẩm, với tọa độ khởi đầu là Huế, mở ra một không gian nửa bên kia trái đất, là nước Pháp hay Algeria..., nơi có những mối quan hệ chặt chẽ với Huế, về văn hóa, về lịch sử và cả con người (Những đôi mắt giấu mình trong đêm, Huế - Réunion...). Tôi không biết người viết đang sống ở Việt Nam hay nước ngoài, và đó có phải là vùng hiện thực quen thuộc của họ không, nhưng, mang đến cho thế giới truyện ngắn dự thi những không gian ấy đồng nghĩa với việc mang đến một cái khác. Đấy là điều cần thiết cho một cuộc thi văn chương mà phần lớn tác phẩm đều hướng đến một hiện thực đã ổn định, nhiều khi gây cảm giác nhàm chán.
3. Viết về thiên nhiên, về những trầm tích văn hóa Huế, nhiều tác phẩm cũng nỗ lực miêu tả, khái quát về con người Huế. Dưới ngòi bút của các tác giả, con người xứ Huế hiện lên khá sinh động, chân thật dù rằng chưa thực sự phong phú. Trước hết, đó là những con người lam lũ, chịu khó, phần nhiều gắn với sông biển, đầm phá... (dĩ nhiên, nếu viết về con người phố thị thì thật khó để mô tả cái nhọc nhằn lam lũ, cái nghèo khốn, và vì thế, khó để làm bật nổi được tình người với những trắc ẩn, yêu thương). Tôi nhớ hình ảnh con người lam lũ, vật vạ trong thiên tai cũng từng xuất hiện khá phổ biến trong nhiều tác phẩm tham gia cuộc thi thơ trên Tạp chí Sông Hương năm 2023. Đấy là một lão ngư với cái - gọi - là - mái - nhà (tôi nhấn mạnh), là một thiếu nữ lớn lên trong mặc cảm của đói nghèo, của thân phận quá lứa lỡ thì hay con thêm vợ lẽ... Nhưng, điều mà các tác giả cố tình nhấn mạnh không chỉ là chỗ đó. Dường như mỗi cây bút, với những tầm mức khác nhau, đều cố gắng khắc họa hình tượng con người nơi đây với những phẩm hạnh truyền thống, cố hữu. Người Huế ở đây không phóng khoáng, không hào sảng, họ “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng luôn đong đầy yêu thương, họ sẵn sàng mở lòng giúp đỡ, cứu vớt những người cùng đường tuyệt lộ, nhưng là sự giúp đỡ lặng lẽ, trong một thứ tình thương lặng lẽ, đôi khi dè dặt, đôi khi âm thầm. Vì thế, ở những con người này, người ta không nhìn thấy những ồn ào của kiếm khách hay hiệp sĩ. Họ là biểu tượng tính cách của người Huế: khiêm nhường, điềm đạm, nhẫn nại trong cả việc hành hiệp trượng nghĩa. Đấy là ông Dự của Những dòng sông miên man chảy; là lão Thới của Bắc một nhịp cầu; là lão ngư trong Sứ mệnh của sóng. Phải nói rằng, viết về tình người xứ Huế, có một số truyện khiến lòng người cảm động.
Nhưng con người xứ Huế không chỉ cần cù, không chỉ đầy chung thủy, yêu thương và trắc ẩn như những ví dụ về tính cách, đạo hạnh. Họ còn là những người lãng mạn. Chẳng thế mà những câu chuyện về tình yêu, những câu chuyện về các nghệ sĩ được kể một cách say sưa và những trăn trở về nghệ thuật cũng thể hiện bởi không ít cây bút. Nhưng đây là một chủ đề khó, có lẽ dành để nói sau. Phổ biến, dễ chịu và khó chịu nhất vẫn là những mối tình. Dễ chịu bởi chúng mang đến thế giới nghệ thuật của tập hợp tác phẩm một không khí lãng mạn bay bổng, và trẻ. Còn khó chịu? Bởi hình như nhiều tác giả vẫn chưa thoát khỏi sự trì níu của quá khứ. Những câu chuyện tình với nội dung khá quen thuộc, vẫn là ngang trái do lễ giáo, do hiểu nhầm, vẫn là sinh ly tử biệt do chiến tranh, do một điều gì đó ngẫu nhiên vụng về, thậm chí, có khi, tác giả muốn làm mới câu chuyện bằng việc bổ sung một tình huống khác lạ, thì lại là tình huống hết sức khiên cưỡng... Ở khu vực này, sự phân định giá trị chủ yếu căn cứ vào cách hành văn. Tất nhiên, nói như thế không có nghĩa là phủ nhận tất cả. Vẫn có những truyện lóe sáng bằng một thứ tình huống và lối viết đầy sự say mê và sáng tạo, nhất là những truyện được viết theo phong cách hiện đại, hậu hiện đại.
Và còn đó một con người xứ Huế với tinh thần gia trưởng. Những trải nghiệm văn hóa và cả đời sống mách bảo ta rằng các tác giả hoàn toàn không có gì nhầm lẫn về điều này. Một xứ sở đã từng tôn nghiêm bởi là kinh đô của cả nước, bởi những gia đình công hầu khanh tướng, và lễ giáo là một thứ gì đó chảy thường xuyên trong huyết mạch mỗi người, thì sức sống của tinh thần gia trưởng (cho dù đôi khi có vẻ không còn hợp thời nữa) cũng không hẳn là cái gì trái với lẽ thường. Chính tinh thần gia trưởng đã níu kéo được những đổ vỡ nhưng cũng chính tinh thần gia trưởng đã gây nên đổ vỡ. Tôi hiểu tinh thần gia trưởng đậm đặc như một nét tính cách văn hóa đặc hữu của nơi này (Từ đường - Lệ Hằng, Đêm rằm tháng bảy - Thảo Giang, Thánh vật - Mạc Yên...) Tất nhiên, với bản chất đa nghĩa của các văn bản nghệ thuật, tôi hiểu rằng một vài tác phẩm trong đó không chỉ nói về tinh thần gia trưởng, mà là một cái gì đó sâu xa hơn nữa, như là thói mụ mị trước thần tượng hay sự nô thuộc vào quá khứ... Riêng điểm này, tôi chú ý nhiều đến Thánh vật.
4. Từ một góc nhìn khác, có thể nhận thấy các nhóm đề tài chính được đề cập trong 63 tác phẩm gồm: đề tài về văn hóa, đề tài về đời sống và con người trong tính chất hiện thực của nó, đề tài quá khứ (bao gồm cả những truyện hư cấu có liên quan đến Huế) và đề tài chiến tranh, đề tài về nghệ thuật với nghệ sĩ (dĩ nhiên đây chỉ là sự phân loại tương đối và tên gọi các đề tài cũng chỉ mang tính chất ước định). Ở mỗi đề tài, đều có thể “chỉ mặt”, “gọi tên” các tác phẩm ưu trội hơn, và có những đóng góp thực sự. Viết về đời sống đương đại, tôi đặc biệt chú ý đến một số tác phẩm mà ở đó, người viết đã thoát khỏi những ám ảnh về nội dung và tiêu chí ưu tiên của cuộc thi, để trình hiện những suy tư mãnh liệt về đời sống trên tinh thần của cái phi lý, nỗi cô đơn, tình trạng lưu đày của con người trong lối viết nghiêng về hiện đại hay hậu hiện đại. Nhảy qua bóng mình (Lê Vũ Trường Giang) như một cuốn sách tập hợp một liên văn bản, của huyền thoại, của cổ tích, của văn chương, triết học và âm nhạc, của phương Đông và phương Tây, của thiên tạo và nhân tạo trong một đối thoại không rõ hình hài, như một trò chơi vô tăm tích; Vết sẹo (My Tiên) viết về một hạnh phúc mong manh, trong một cuộc tình mong manh, lý tưởng và bí ẩn với những khoảng cách vời vợi ngăn cách những khát vọng chia sẻ. Thông qua những giấc mơ, tai ương và khoảng cách, truyện còn là cuộc kiếm tìm bản thể con người, kiếm tìm mục đích cuối cùng và sứ mệnh đích thực của nghệ thuật. Truyện viết hiện đại, yếu tố kỳ ảo, giấc mơ được sử dụng đắc địa ngoài việc tạo nên độ hấp dẫn của tình huống và không gian truyện còn, và quan trọng hơn là nhấn mạnh trạng thái vô thường của thế giới và nỗi cô đơn, lưu đày của con người. Đò nước chiều hôm (Đinh Thành Trung) kể về kiếp sống vạ vật của những người lao động nghèo khó nhưng chân chính - những thân phận bên lề theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Nhưng họ hào hiệp và ấm áp tình người. Truyện cũng nói về nghệ thuật và bản lĩnh sống bằng đam mê. Không có cốt truyện mạch lạc, chỉ là những dòng viết tưng tửng, khô khốc rất đời nhưng giấu sau đó, giấu trong đó là những nỗi niềm khiến người ta cảm động, những câu hỏi thật khó trả lời. Rốt cuộc người ta sống vì cái gì? Người ta sống vì lẽ gì? Đời người, sinh mệnh nghệ thuật, những ước mơ, những giá trị... sẽ đi về đâu. Cái kết khá bất ngờ và mở ra khoảng trắng mênh mông để người đọc tiếp tục suy tư. Nanh rắn (Lê Quang Trạng) viết về chủ đề văn hóa truyền thống trên cơ sở miêu tả những kỳ bí xa lạ của núi rừng, về nguy cơ tàn phai, tuyệt tích của văn hóa các tộc người bởi sự xâm lấn của nền văn minh hiện đại, và cả của những ham mê danh vọng, mặt trái của khát vọng nghệ thuật khi tác động một cách tàn nhẫn lên đời sống, nhất là đời sống tinh thần nguyên sơ của các tộc người.
Những truyện viết về quá khứ cũng chiếm một tỉ lệ không nhỏ trong cuộc thi này. Có những truyện được xây dựng như những huyền thoại (Truyền thuyết phượng hoàng - Nguyễn Anh Tuấn, Nguyệt quế hoa - Ngô Tú Ngân...), có những truyện bắt đầu từ một nhân vật, một sự kiện lịch sử (Ức cố nhân - Trần Quỳnh Nga, Sóng gió quan trường - Nguyễn Anh Tuấn, Lửa Hoàng Nghiêu - Mai Xuân Thắng...). Đây là một đề tài khó. Văn chương hiện đại viết về lịch sử không chỉ thuần túy là việc kể lại một câu chuyện lịch sử, mà nó phải đối thoại với lịch sử hoặc gợi nghĩ về hiện tại trong sự tôn trọng tính chính xác của những sự kiện lịch sử - dù người viết có thể sáng tạo, bổ sung những nét về tính cách, phẩm hạnh, ngôn ngữ, suy tư của nhân vật. Khó, vì đã có một số tác giả viết rất thành công ở đề tài này như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Khánh, Lưu Sơn Minh, Uông Triều... Bởi thế mà không nhiều tác phẩm của cuộc thi, viết về quá khứ, có thể đáp ứng tầm đón đợi của công chúng hôm nay. Tôi ấn tượng mạnh với Ức cố nhân, nơi xuất hiện một Nguyễn Trãi cô đơn, một nhà khảo cổ cô đơn với những suy tư về giá trị trong cốt truyện song tuyến với kỹ thuật viết khá điêu luyện.
Chiến tranh, cho đến nay, cụ thể là với cuộc thi này, vẫn là đề tài nóng. Tất nhiên đại đa số các cây bút đã có ý thức viết về chiến tranh không để ngợi ca, mà là để đau đớn về nó. Nhưng đây cũng không phải là điều mới mẻ, thế nên có cảm giác như người viết vẫn chủ yếu đi vào một con đường rất quen thuộc mà cả đội ngũ người viết và đông đảo công chúng đã nhiều lần đi qua. Trong không khí ấy, Người lính trở về của Nguyễn Ngọc Lợi và Tháng ba hoa gạo đỏ của Vi Hợi có thể coi là những tác phẩm có một cách tiếp cận đề tài khác với phần còn lại với lối viết “có nghề”.
Có đến 63 tác phẩm của 63 tác giả được chọn vào vòng sơ khảo, nhưng, như đã nói, hình như đại đa số tác giả tự giới hạn mình trong những yêu cầu (chắc chắn là chỉ có tính chất tương đối - như một tiêu chí ưu tiên) của cuộc thi, nên chủ đề, đề tài chưa thực sự phong phú. Thú thật, với những người đọc chuyên nghiệp, có lẽ sẽ không thực sự tìm được khoái cảm thẩm mỹ trong những loạt truyện say sưa với tình yêu (trong một mô típ khá chung là tan vỡ do hiểu nhầm, do chiến tranh, do không được sự đồng ý của hai gia đình), về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực, với công chúng, về lịch sử, về chiến tranh với sự trình hiện một lối viết thiếu sức sống của sự bứt phá... Chọn một nội dung để được ưu tiên hay chọn một lối khác để trình hiện chính mình quả là thử thách khắc nghiệt dành để kiểm chứng bản lĩnh của ngòi bút tác giả.
5. Nhưng dù sao, cũng không thể phủ nhận rằng, cuộc thi đã thu hút được ít nhiều cây bút có bản lĩnh. Đó là những người đã mạnh dạn thoát ly những ràng buộc nói trên, để tìm kiếm những chủ đề, những đề tài, những vùng hiện thực ngoài Huế, ngoài chiến tranh, ngoài quá khứ, ngoài những câu chuyện tình yêu và thân phận gắn với một hiện thực cụ thể. Họ đặt mình trong vùng thẩm mỹ nóng bỏng của hiện tại và cảm nhận được một cách sâu sắc tình thế của con người trong hiện tại, của sự tồn - tại - trong - thế giới. Họ cảm thấy được, đánh giá được về nỗi hoang mang của con người trong một thế giới tẻ nhạt, quẩn quanh, vô vị, phi lý, thường trực đối diện với nỗi lưu đày và cái chết. Họ không nhốt chặt con người của mình trong cái chật hẹp của cuộc mưu sinh, của những tranh chấp về vật chất hay những cuộc ẩu đả về tinh thần. Con người trong sáng tác của họ, tất thảy đều là nạn nhân và mãi mãi đều là kẻ thất bại. Đấy chính là sự khái quát chính xác về tình thế sống của con người hiện đại. Với cảm quan hiện đại và hậu hiện đại ấy về con người, các tác giả cũng trình hiện những lối viết mang đến những khoái cảm về cái mới, cái lạ của văn xuôi. Các thủ pháp như sử dụng kỹ thuật dòng ý thức, giấc mơ, huyền thoại hóa, phi logic hóa, miêu tả cái vắng mặt được sử dụng cơ bản nhuần nhuyễn và có thể thấy rõ hiệu quả nghệ thuật của chúng.
6. Khắc nghiệt là từ có thể dùng cho mọi cuộc đua. Cũng như những cuộc thi khác, cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Sông Hương sẽ khép lại, với những niềm vui nỗi buồn. Nhưng vui buồn vốn dĩ là nghiệp của người cầm bút. Điều quan trọng là, từ đây, sẽ có những tài năng mới được phát hiện. Nhưng những tài năng mới được phát hiện ấy có đủ nội lực và đam mê để tiếp tục hành trình? Cũng có người sẽ phát hiện lại chính mình và biết mình đang ở đâu trên con lộ văn chương. Tất cả những gặt hái nghệ thuật hay thành tựu bị bỏ lỡ đều để lại ấn tượng trong công chúng, giúp họ có một đời sống mới hơn, dù là trường cửu hay chỉ là khoảnh khắc.
L.T.N
(TCSH56SDB/03-2025)
-----------------------
1 Chữ dùng của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà.
Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.
Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.
Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.
“Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.
Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.
Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.
Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.
Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.
Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.
Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.
Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…
Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.
Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.
Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.
Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.
“Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.
Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.
Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?
Chú trọng phát triển văn hóa đọc tại vùng nông thôn, miền núi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, văn hoá đọc ở trẻ em nói riêng sẽ không thể phát triển rộng lớn nếu hệ thống phát hành sách chỉ tập trung ở thành phố và trẻ em nông thôn, miền núi vẫn còn “đói sách”.