Có nên đánh thức tính xấu hổ trong phê bình

11:20 29/07/2008
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*


1. Gọi xấu hổmắc cỡ, ôốc duộc hay ngượng cũng chả sao, nhưng hai từ xấu hổ có vẻ mạnh hơn, đi thẳng vào bản chất hơn. Xấu hổ là một thuộc tính của con người, nó ngược lại với trơ trẽn, trâng tráo. Ấy vậy mà không ít người rất sợ nói tới "bài học của sự xấu hổ". Biết xấu hổ, chính là một hành động phục thiện. C.Marx còn cho đấy là một dạng thức cách mạng ("Sự xấu hổ – đó cũng là một dạng của cách mạng").
2. Trong phê bình văn học, việc hiểu đúng hoặc hiểu sai một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu hay một thời đại đều có thể xảy ra. Vì một người hay một nhóm người không phải là tất cả, và chân lý đôi khi lại nằm ngay dưới gấu váy của mẹ Đốp. Có lẽ vì thế chăng mà ở phương Tây thế kỷ XX đã xuất hiện hàng chục trường phái phê bình văn học như Phân tâm học (analytical psychology), Ngữ nghĩa học (semantics), Phê bình mới (New criticism), Chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism), Hiện tượng luận (Phenomenology), Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism), Ký hiệu học (Sémiotics), Giải thích học (Hermeneutics), Mỹ học tiếp nhận (Receptive Esthetics), Xã hội học văn học (Sociology of literature), v.v... và v.v... Mỗi trường phái ra đời đều mang tới sự phủ định và phát triển; nhưng nhìn chung không có trường phái nào là tuyệt đối, mà chỉ là thêm vào, làm giàu có phương pháp luận phê bình của nhân loại. Nếu các học giả phương Tây không biết xấu hổ trước những gì đã lỗi thời, phi khoa học thì làm sao có thể phủ định nó để mở ra những sáng tạo mới như từ Phê bình mới đến Phê bình mới "mới"?
3. Không ai đủ can đảm để tự cho mình là hoàn toàn đúng. Tôi vẫn thường hoài nghi tôi khi viết phê bình văn học, bởi tôi là một người sáng tác. Tất nhiên, người sáng tác viết về người sáng tác có lợi thế riêng về sự chia sẻ từ tâm lý sáng tạo nghề nghiệp, dễ hiểu nhau hơn. Trường hợp Nguyễn Tuân nói về đồng nghiệp Nguyên Hồng thì thật là chí lý: "Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông". Lại cũng Nguyễn Tuân đã có lúc diễu đùa các nhà phê bình quá "tự tin" rằng "Khi tôi chết hãy chôn theo tôi một nhà phê bình để còn được tiếp tục cãi nhau". Tôi không nghĩ các anh Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Hòa khi viết phê bình đều tự cho mình là hoàn toàn đúng. Bởi ngay khi phê bình bài phê bình của tôi với tựa đề "Sự ngộ nhận trong phán xét văn trẻ", Nguyễn Hòa đã nhiều lần dẫn sai tựa đề này thành ra "sự ngộ nhận trong phán xét thơ trẻ". Văn là nói chung về văn chương, còn thơ là thơ mà thôi. Cũng như trước đây khi anh Nguyễn Hòa viết bài phê phán những bài thơ đang ở dạng bản thảo chưa hoàn chỉnh của Văn Cầm Hải "Phải chăng đó là thơ" anh không đủ can đảm ký tên Nguyễn Hòa mà phải khoác cho mình một cái tên ái nam ái nữ Ngọc Oanh gì đó. Hoặc giả khi Nguyễn Thanh Sơn tự vu lên là tôi "ép" anh phải đọc thơ giống tôi, thì chính anh lại ép tôi "nên viết một bài nói về cái đẹp của tập thơ Linh (mà anh thấy) để (ngấm ngầm) giảng giải cho tôi...". (Về vấn đề này tôi sẽ trao đổi lại ở dưới bài viết này). Nếu biết tự xấu hổ, thì tôi tin người ta sẽ bớt chủ quan hơn về sự khả tín của chính mình.
4. Phê bình là khoa học của cảm thụ và phân tích. Nó trái ngược với sự hiểu biết mơ hồ mà lại quá tự tin, nói phứa đi nhằm lấp liếm người đọc. Khi Nguyễn Hòa khẳng định: "thơ trẻ" (ở ta – NTT) trở về với những đài tưởng niệm cách đây dăm ba chục năm người phương Tây đã từng dựng lên để nhớ tới "thơ điện", "thơ man rợ" – những thứ thơ mà các nhà thơ như Marinetti, Pélieu, Merssagier... đã chế tạo ra", và cho rằng nó đã "lỗi thời", thì xem ra anh hiểu khá nông cạn về nhà thơ lớn người Ý từng sống ở Pháp có tên là Marinetti (1876-1944). Ông là một nhà thơ theo chủ nghĩa tượng trưng, sau đó là tổ sư của chủ nghĩa vị lai Ý (1909). Còn trường phái Barbarisme (có lẽ Nguyễn Hòa đã nhầm với từ Barbarie nghĩa là sự dã man chăng?) trong đó người ta hay nhắc đến Marinetti hay nhạc sĩ Stavinsky, là một trường phái cách tân, dùng từ ngữ phản qui tắc, chối ngịch với quan niệm "tao nhã" của nghệ thuật đương thời cuối thập kỷ 20. Trường phái này quan tâm đến những hình ảnh và tư tưởng hơn là những ước lệ của niêm luật, với hình thức thơ tự do thiên về hình ảnh mang màu sắc nhục cảm. Đây là một cuộc cách mạng đưa thơ thoát khỏi qui củ cứng nhắc của cú pháp, chấm câu và cả logic nữa. Thử dịch nghĩa một câu thơ của Marinetti: "Những ngọn tháp như những ngọn giáo đen đâm vào làm đau xé da thịt mệt mỏi của chiều". Thơ như thế thì chẳng có gì là "man rợ", "lỗi thời" cả. Tôi không nghĩ là "thơ trẻ" ở ta lặp lại thơ "lỗi thời" của Tây, nhưng nếu họ có học tập những cái hay, cái độc đáo của thế giới thì chẳng có gì là đáng phủ nhận họ một cách "man rợ" như vậy. Nếu không học thơ phương Tây thế kỷ XIX thì làm gì có Thơ mới (1932-1941) ở Việt ta?
Do muốn đẩy "thơ trẻ" ta lùi về giữa thế kỷ XX, Nguyễn Hòa "thử làm một đối chiếu" mấy câu "thơ trẻ" với "thơ điện" ra đời cách đây đã hơn 40 năm: Vé nổ đặt rất ít thời gian thế là tôi đến chào anh buổi tối – Những mảnh bệnh cúm Tây Ban Nha xám không muốn chụp ảnh – Hãy đốt gió trong ống nêông xanh (vân vân – NTT)" và anh mở ngoặc: (Nguyên bản – Pélieu). Trước hết đấy là bản dịch tiếng Việt chứ không phải "nguyên bản" (bởi nguyên bản bằng tiếng Pháp). Hai là những loại thơ "phản qui tắc ngữ pháp" không thể dễ dịch. Ta tạm tin vào bản dịch, và đem "đối chiếu" với mấy câu "thơ trẻ" như: Người dương cầm lên cơn tổng phổ; Chùm hoa tigôn cũng đỏ màu tập thể... của Văn Cầm Hải, và Chưa bao giờ như chiều nay – Đàn kiến tha mặt trời qua mùa hè run rẩy; Mặt trời vỡ hàng triệu mảnh bọc thân thể tôi rát bỏng – Cát bay lên như những linh hồn... của Vi Thùy Linh thì rõ ràng là chúng rất khác nhau. Thơ trẻ ta khá rõ nghĩa, dễ hiểu chứ không rối rắm mất trật tự như thơ Pélieu theo bản dịch mà anh Hòa đã dẫn ra. Ấy thế mà Nguyễn Hòa hạ bút: "hẳn thấy chúng không khác nhau nhiều lắm". Rồi không rõ nguyên cớ gì anh lại kéo Thanh Thảo vào đây để hạ sát: "Tình trạng này cũng cũ như cái bài thơ anh Thanh Thảo ăn theo thơ trẻ đã "trục vớt' được. Thanh Thảo không ăn theo thơ trẻthơ trẻ cũng chẳng ăn theo Thanh Thảo. Có lẽ thơ nào đọc tự mình không hiểu thì Nguyễn Hòa đều cho là ăn theo nhau. Hóa ra cái "sở hiểu" cũng không phải ai cũng tốt. Tôi tự nghĩ rằng cái "sở hiểu" của mình thật có hạn, cái "sở đọc" lại càng có hạn hơn, vì càng đọc càng thấy mình ngu dốt trước tri thức mênh mông của thiên hạ. Tôi không rõ "sở đọc" của Nguyễn Hòa đến đâu, nhưng khi anh viết: "Có cái gì đó khôi hài khi Nguyễn Trọng Tạo khen ngợi những câu thơ trẻ nhưng qua đó lại bộc lộ cái "sở đọc" còn quá hạn hẹp. Nếu biết tự xấu hổ, chắc chẳng ai dám khoe cái "sở đọc" rộng hoác của mình. Đọc mà không hiểu thì thà không đọc còn hơn.
5. Nguyễn Thanh Sơn là một người trẻ, gần đây đăng một số bài viết phê bình. Gọi anh là "nhà phê bình" hay "nhà phê bình trẻ" cũng chẳng sao. Nhưng theo tôi, từ "nhà" ở ta dạo này bị lạm dụng. Mới kiếm được vài tấm tôn bóng loáng, chưa thấy rường cột đâu cũng được gọi "nhà" nhan nhản. Nguyễn Thanh Sơn thì khác, chỉ mấy bài viết đã thấy văn anh có giọng khác. Có dấu hiệu "rường cột" (!) Anh luôn đòi đối thoại trong phê bình "cần một thái độ tôn trọng những ý kiến khác với ý kiến của mình”, nghĩa là thái độ văn hóa. Nhưng khi người khác không tán thành (hay trái ngược) với ý kiến của anh, anh lại cho rằng họ "thiếu bình tĩnh" và "thiếu văn hóa". Như vậy hóa ra anh là người "ăn bánh mì nóng" chứ cũng chẳng chịu đợi cho bánh "dịu đi, mềm ra" để nó "dậy hương thơm ngon lành của bánh" như bài học văn hóa tư chiếc bánh mì Nga mà anh đã viện dẫn. Chính vì thế mà anh khăng khăng phủ nhận thơ Vi Thùy Linh là "một món nộm thơ nhạt nhẽo" trên báo nhưng tôi lại lấy làm lạ khi anh phát ngôn trên đài BBC rằng: "Thế mạnh của Vi Thùy Linh theo tôi là biết nói về những cảm xúc, biết nói về những dục vọng của thế hệ mình. Tôi rất trân trọng sự cởi mở, sự chân thực của Vi Thùy Linh như thế". Đấy là do anh tự điều chỉnh hay là do người ta "ép" anh? Hay chỉ là một lời khen đãi bôi? Theo thuyết "Nghệ thuật tức kinh nghiệm" của John Deway, tôi nghĩ rằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đọc đã giúp anh tiến gần tới bản chất tác phẩm hơn (dù chỉ là trong khoảnh khắc), đó cũng là một biểu hiện tốt của "sự xấu hổ – cách mạng".
6. Vấn đề văn trẻ nói chung và thơ trẻ nói riêng, gần đây được tranh luận tương đối sôi nổi với nhiều nhận định khác nhau. Có khen, có chê và có cả "sổ toẹt". Điều đó chứng tỏ "thơ trẻ" đã có một cái gì đó làm cho người ta chú ý. Đó là những phản ứng lành mạnh (trên mặt bằng chán ngấy trước đó). Ấy thế mà Nguyễn Hòa không chỉ sổ toẹt thơ trẻ mà còn sổ toẹt cả phê bình chính là cái nghề mà anh đang tham vọng: "Một tập thơ có bao nhiêu bài khen, bao nhiêu bài chê, bao nhiêu bài dở khen dở chê không nói lên điều gì...". Sao lại không nói lên điều gì? Nó nói lên rằng, thơ ấy đang tồn tại trong sự phản ứng khen chê của bạn đọc. Cái quan niệm "khen là tâng bốc, lăng xê; chê mới là chân chính nghiêm túc, dạy cho một bài học" nay quá lỗi thời, cách đây 900 năm, Nghiêm Hữu Dực quyết chê thơ Tô Đông Pha đến cạn tàu, ráo máng nhằm tìm sự nổi tiếng, nhưng theo Viên Mai thì "rốt cuộc người ta chỉ biết có Tô Đông Pha mà không hề biết Nghiêm Hữu Dực". Quan niệm riêng của tôi là, phê bình văn học quan trọng nhất là nhận ra cái hay, hoặc mầm mống của cái hay (cái hay mang trong đó cái mới) mà đề cao nó, để nhiều người cùng thưởng thức. Vì cái hay, cái mới luôn luôn hiếm Còn cái dở thì tràn lan, thời nào cũng thế, cứ bơi mãi trong đó ắt có ngày sẽ bị nó nhấn chìm trong rác rưởi. Chính vì thế mà đọc thơ trẻ, tôi thường chú ý đến những tác giả có cá tính mới lạ, có ngôn ngữ mới, giọng điệu mới và tư tưởng mới. Việc tôi nhắc tên và thán phục một số nhà thơ trẻ như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly... khoảng 10 năm lại đây là với ý nghĩa chung đó, chứ không phải là không biết họ còn có những cái dở, cái hạn chế hoặc cái tôi không thích. Và tôi có thể tin được điều đó, ít nhất là đối với Nguyễn Thanh Sơn khi anh cho biết: "Tôi đọc kỹ được 5,6 người: Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải ... Trong số đó tôi thích nhất là Phan Huyền Thư..." (Phụ nữ thủ đô, 9-2001). Anh "thích nhất Phan Huyền Thư", còn tôi lại thích nhất thơ một người nào khác, điều đó còn phụ thuộc vào sở thích của mỗi người riêng lẻ. Còn vấn đề chung là không thể phủ nhận họ, bởi họ đã làm cho mình phải "đọc kỹ" thơ họ. Khi Nguyễn Thanh Sơn thích những nhà thơ trẻ mà tôi đã thích từ trước, thì đâu phải là chuyện tôi "ép" anh đọc thơ giống tôi như anh đã một lần "chỉ ra"?
7. Mọi người đều có quyền thưởng thức nghệ thuật. Nhưng không ai có quyền tự cho mình là hiểu hết nghệ thuật. Đối với một số loại hình "nghệ thuật khó" lại càng phải thận trọng hơn. Xem tranh "trừu tượng", nghe nhạc "tiền phong", đọc thơ "hiện đại"... thường phải tự kiểm tra lại mình đã hiểu được gì về các trào lưu đó. Chúng ta đôi khi quen thói chủ quan phán bừa những điều không biết rõ, để rốt cuộc chuốc lấy sự xấu hổ không đáng có. Viên Mai nói rằng: "Bài thơ chỉ đổi một chữ, giới hạn khác nhau một trời một vực, không phải người làm thơ thì không lý giải được". Hoàng Hưng ở ta cũng từng nói với một nhà phê bình trẻ: "Đọc anh, thấy anh thông minh, cái gì cũng biết, chỉ trừ thơ mà anh phê bình". Những câu nói ấy, đáng để chúng ta sờ lại gáy mình.
8. Khi nhắc nhở người viết phải bình tĩnh, cũng có nghĩa là tự nhắc người đọc cũng phải bình tĩnh. Hai anh Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn hình như quên mất điều đó khi đọc tôi và cho rằng tôi "trui rèn các kỹ xảo ngoa dụ, ngoa ngôn" (Ng. Hòa), hoặc "đại ngôn" (N.T. Sơn). Nguyễn Thanh Sơn viết: "Tôi cũng rất thông cảm với nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo trong khao khát "giải mã" cho "những bài thơ có tính phức điệu của nhạc giao hưởng". Dù ngờ rằng chẳng qua đó là tính đại ngôn của anh". Anh Sơn do "sốc" mà quên mất rằng, "giải mã" hay "tính phức điệu" là những thuật ngữ chứ không phải là "đại ngôn"; và với những thuật ngữ quen thuộc ấy mà anh "có thể không cảm thụ nổi" mặc dù anh tự nhận mình là "một dàn nhạc cổ điển" thì kể cũng kỳ (!) Tôi đồ rằng đấy là anh tự diễu anh cho vui, chứ viết như thế cho nhiều người đọc thì chắc anh cũng chẳng nỡ chút nào, chỉ tổ làm người đọc phải xấu hổ giùm.
9. Cuối cùng, tôi muốn nói đến tính dễ tự ái của người viết phê bình. Người viết phê bình thường cho mình toàn quyền phán xét tác phẩm của người khác, nhưng hễ người khác phán xét tác phẩm của mình thì lại dễ nổi xung. Đấy là tính dễ tự ái. Cả hai anh Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn cũng không thoát khỏi đức tính ấy. Đấy là trường hợp tôi không đồng tình với Nguyễn Hòa (Ngọc Oanh) khi phê phán quá quắt và vô nguyên tắc thơ Văn Cầm Hải, và Nguyễn Thanh Sơn sổ toẹt thơ Vi Thùy Linh, hai nhà thơ trẻ có tài, có học, và có thức trong "thơ trẻ" gần đây, thậm chí có anh còn đòi cả "các ngành hữu quan" (nghĩa là pháp luật) can thiệp vào thơ của họ. Khi tôi nhận định: "Hiện nay cây bút phê bình trẻ không nhiều, và còn mang đậm tính báo chí chứ chưa thành tác giả, nhà văn lý luận phê bình", nhiều người cũng thừa nhận như thế. Riêng anh Nguyễn Hòa bị chạm tự ái, liền kêu cứu mỉa mai: "Anh Nguyễn Trọng Tạo ơi... Anh không coi họ là tác giả, là nhà văn lý luận phê bình cũng không sao, căn bệnh háo danh ấy xin dành cho người viết nào đang nuôi tham vọng nổi tiếng trên văn đàn". Ô hay, người viết phê bình mà trở thành một tác giả, một nhà văn lý luận phê bình "nổi tiếng trên văn đàn" thì thật là đáng quý chứ đâu phải là "căn bệnh háo danh"? Còn những người chỉ viết phê bình cho vui, được chăng hay chớ, không muốn thành một tác giả chuyên nghiệp thì cũng chẳng ai ép họ được. Tài năng vốn không ở ngoài mình. Những nhà phê bình cũng thế, họ phải tự rèn luyện, lắng nghe và suy ngẫm mới thành tài. Nói như Lưu Hà Thường: "Người có lòng dạ hư không, biết xấu hổ, biết nghe lời người ta chỉ trích, ấy là người có thiên tài vậy"; Nhưng người có được "lòng dạ hư không" trong thiên hạ đâu phải là nhiều! Chính vì thế mà tôi đặt ra vấn đề: "Có nên đánh thức tính xấu hổ"...
Hà Nội, tháng 9-2001
N.T.T

(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)


-----------------------------------------
- Sao cứ ép tôi hiểu thơ giống ông – Nguyễn Thanh Sơn – Tia sáng, 8-2001
- Về một chàng hiệp sĩ – thi sĩ cưỡi Rôxinantê đỡ đầu cho "thơ trẻ" –
Nguyễn Hòa – Tia sáng, 9-2001.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H