Có nên đánh thức tính xấu hổ trong phê bình

11:20 29/07/2008
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*


1. Gọi xấu hổmắc cỡ, ôốc duộc hay ngượng cũng chả sao, nhưng hai từ xấu hổ có vẻ mạnh hơn, đi thẳng vào bản chất hơn. Xấu hổ là một thuộc tính của con người, nó ngược lại với trơ trẽn, trâng tráo. Ấy vậy mà không ít người rất sợ nói tới "bài học của sự xấu hổ". Biết xấu hổ, chính là một hành động phục thiện. C.Marx còn cho đấy là một dạng thức cách mạng ("Sự xấu hổ – đó cũng là một dạng của cách mạng").
2. Trong phê bình văn học, việc hiểu đúng hoặc hiểu sai một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu hay một thời đại đều có thể xảy ra. Vì một người hay một nhóm người không phải là tất cả, và chân lý đôi khi lại nằm ngay dưới gấu váy của mẹ Đốp. Có lẽ vì thế chăng mà ở phương Tây thế kỷ XX đã xuất hiện hàng chục trường phái phê bình văn học như Phân tâm học (analytical psychology), Ngữ nghĩa học (semantics), Phê bình mới (New criticism), Chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism), Hiện tượng luận (Phenomenology), Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism), Ký hiệu học (Sémiotics), Giải thích học (Hermeneutics), Mỹ học tiếp nhận (Receptive Esthetics), Xã hội học văn học (Sociology of literature), v.v... và v.v... Mỗi trường phái ra đời đều mang tới sự phủ định và phát triển; nhưng nhìn chung không có trường phái nào là tuyệt đối, mà chỉ là thêm vào, làm giàu có phương pháp luận phê bình của nhân loại. Nếu các học giả phương Tây không biết xấu hổ trước những gì đã lỗi thời, phi khoa học thì làm sao có thể phủ định nó để mở ra những sáng tạo mới như từ Phê bình mới đến Phê bình mới "mới"?
3. Không ai đủ can đảm để tự cho mình là hoàn toàn đúng. Tôi vẫn thường hoài nghi tôi khi viết phê bình văn học, bởi tôi là một người sáng tác. Tất nhiên, người sáng tác viết về người sáng tác có lợi thế riêng về sự chia sẻ từ tâm lý sáng tạo nghề nghiệp, dễ hiểu nhau hơn. Trường hợp Nguyễn Tuân nói về đồng nghiệp Nguyên Hồng thì thật là chí lý: "Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông". Lại cũng Nguyễn Tuân đã có lúc diễu đùa các nhà phê bình quá "tự tin" rằng "Khi tôi chết hãy chôn theo tôi một nhà phê bình để còn được tiếp tục cãi nhau". Tôi không nghĩ các anh Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Hòa khi viết phê bình đều tự cho mình là hoàn toàn đúng. Bởi ngay khi phê bình bài phê bình của tôi với tựa đề "Sự ngộ nhận trong phán xét văn trẻ", Nguyễn Hòa đã nhiều lần dẫn sai tựa đề này thành ra "sự ngộ nhận trong phán xét thơ trẻ". Văn là nói chung về văn chương, còn thơ là thơ mà thôi. Cũng như trước đây khi anh Nguyễn Hòa viết bài phê phán những bài thơ đang ở dạng bản thảo chưa hoàn chỉnh của Văn Cầm Hải "Phải chăng đó là thơ" anh không đủ can đảm ký tên Nguyễn Hòa mà phải khoác cho mình một cái tên ái nam ái nữ Ngọc Oanh gì đó. Hoặc giả khi Nguyễn Thanh Sơn tự vu lên là tôi "ép" anh phải đọc thơ giống tôi, thì chính anh lại ép tôi "nên viết một bài nói về cái đẹp của tập thơ Linh (mà anh thấy) để (ngấm ngầm) giảng giải cho tôi...". (Về vấn đề này tôi sẽ trao đổi lại ở dưới bài viết này). Nếu biết tự xấu hổ, thì tôi tin người ta sẽ bớt chủ quan hơn về sự khả tín của chính mình.
4. Phê bình là khoa học của cảm thụ và phân tích. Nó trái ngược với sự hiểu biết mơ hồ mà lại quá tự tin, nói phứa đi nhằm lấp liếm người đọc. Khi Nguyễn Hòa khẳng định: "thơ trẻ" (ở ta – NTT) trở về với những đài tưởng niệm cách đây dăm ba chục năm người phương Tây đã từng dựng lên để nhớ tới "thơ điện", "thơ man rợ" – những thứ thơ mà các nhà thơ như Marinetti, Pélieu, Merssagier... đã chế tạo ra", và cho rằng nó đã "lỗi thời", thì xem ra anh hiểu khá nông cạn về nhà thơ lớn người Ý từng sống ở Pháp có tên là Marinetti (1876-1944). Ông là một nhà thơ theo chủ nghĩa tượng trưng, sau đó là tổ sư của chủ nghĩa vị lai Ý (1909). Còn trường phái Barbarisme (có lẽ Nguyễn Hòa đã nhầm với từ Barbarie nghĩa là sự dã man chăng?) trong đó người ta hay nhắc đến Marinetti hay nhạc sĩ Stavinsky, là một trường phái cách tân, dùng từ ngữ phản qui tắc, chối ngịch với quan niệm "tao nhã" của nghệ thuật đương thời cuối thập kỷ 20. Trường phái này quan tâm đến những hình ảnh và tư tưởng hơn là những ước lệ của niêm luật, với hình thức thơ tự do thiên về hình ảnh mang màu sắc nhục cảm. Đây là một cuộc cách mạng đưa thơ thoát khỏi qui củ cứng nhắc của cú pháp, chấm câu và cả logic nữa. Thử dịch nghĩa một câu thơ của Marinetti: "Những ngọn tháp như những ngọn giáo đen đâm vào làm đau xé da thịt mệt mỏi của chiều". Thơ như thế thì chẳng có gì là "man rợ", "lỗi thời" cả. Tôi không nghĩ là "thơ trẻ" ở ta lặp lại thơ "lỗi thời" của Tây, nhưng nếu họ có học tập những cái hay, cái độc đáo của thế giới thì chẳng có gì là đáng phủ nhận họ một cách "man rợ" như vậy. Nếu không học thơ phương Tây thế kỷ XIX thì làm gì có Thơ mới (1932-1941) ở Việt ta?
Do muốn đẩy "thơ trẻ" ta lùi về giữa thế kỷ XX, Nguyễn Hòa "thử làm một đối chiếu" mấy câu "thơ trẻ" với "thơ điện" ra đời cách đây đã hơn 40 năm: Vé nổ đặt rất ít thời gian thế là tôi đến chào anh buổi tối – Những mảnh bệnh cúm Tây Ban Nha xám không muốn chụp ảnh – Hãy đốt gió trong ống nêông xanh (vân vân – NTT)" và anh mở ngoặc: (Nguyên bản – Pélieu). Trước hết đấy là bản dịch tiếng Việt chứ không phải "nguyên bản" (bởi nguyên bản bằng tiếng Pháp). Hai là những loại thơ "phản qui tắc ngữ pháp" không thể dễ dịch. Ta tạm tin vào bản dịch, và đem "đối chiếu" với mấy câu "thơ trẻ" như: Người dương cầm lên cơn tổng phổ; Chùm hoa tigôn cũng đỏ màu tập thể... của Văn Cầm Hải, và Chưa bao giờ như chiều nay – Đàn kiến tha mặt trời qua mùa hè run rẩy; Mặt trời vỡ hàng triệu mảnh bọc thân thể tôi rát bỏng – Cát bay lên như những linh hồn... của Vi Thùy Linh thì rõ ràng là chúng rất khác nhau. Thơ trẻ ta khá rõ nghĩa, dễ hiểu chứ không rối rắm mất trật tự như thơ Pélieu theo bản dịch mà anh Hòa đã dẫn ra. Ấy thế mà Nguyễn Hòa hạ bút: "hẳn thấy chúng không khác nhau nhiều lắm". Rồi không rõ nguyên cớ gì anh lại kéo Thanh Thảo vào đây để hạ sát: "Tình trạng này cũng cũ như cái bài thơ anh Thanh Thảo ăn theo thơ trẻ đã "trục vớt' được. Thanh Thảo không ăn theo thơ trẻthơ trẻ cũng chẳng ăn theo Thanh Thảo. Có lẽ thơ nào đọc tự mình không hiểu thì Nguyễn Hòa đều cho là ăn theo nhau. Hóa ra cái "sở hiểu" cũng không phải ai cũng tốt. Tôi tự nghĩ rằng cái "sở hiểu" của mình thật có hạn, cái "sở đọc" lại càng có hạn hơn, vì càng đọc càng thấy mình ngu dốt trước tri thức mênh mông của thiên hạ. Tôi không rõ "sở đọc" của Nguyễn Hòa đến đâu, nhưng khi anh viết: "Có cái gì đó khôi hài khi Nguyễn Trọng Tạo khen ngợi những câu thơ trẻ nhưng qua đó lại bộc lộ cái "sở đọc" còn quá hạn hẹp. Nếu biết tự xấu hổ, chắc chẳng ai dám khoe cái "sở đọc" rộng hoác của mình. Đọc mà không hiểu thì thà không đọc còn hơn.
5. Nguyễn Thanh Sơn là một người trẻ, gần đây đăng một số bài viết phê bình. Gọi anh là "nhà phê bình" hay "nhà phê bình trẻ" cũng chẳng sao. Nhưng theo tôi, từ "nhà" ở ta dạo này bị lạm dụng. Mới kiếm được vài tấm tôn bóng loáng, chưa thấy rường cột đâu cũng được gọi "nhà" nhan nhản. Nguyễn Thanh Sơn thì khác, chỉ mấy bài viết đã thấy văn anh có giọng khác. Có dấu hiệu "rường cột" (!) Anh luôn đòi đối thoại trong phê bình "cần một thái độ tôn trọng những ý kiến khác với ý kiến của mình”, nghĩa là thái độ văn hóa. Nhưng khi người khác không tán thành (hay trái ngược) với ý kiến của anh, anh lại cho rằng họ "thiếu bình tĩnh" và "thiếu văn hóa". Như vậy hóa ra anh là người "ăn bánh mì nóng" chứ cũng chẳng chịu đợi cho bánh "dịu đi, mềm ra" để nó "dậy hương thơm ngon lành của bánh" như bài học văn hóa tư chiếc bánh mì Nga mà anh đã viện dẫn. Chính vì thế mà anh khăng khăng phủ nhận thơ Vi Thùy Linh là "một món nộm thơ nhạt nhẽo" trên báo nhưng tôi lại lấy làm lạ khi anh phát ngôn trên đài BBC rằng: "Thế mạnh của Vi Thùy Linh theo tôi là biết nói về những cảm xúc, biết nói về những dục vọng của thế hệ mình. Tôi rất trân trọng sự cởi mở, sự chân thực của Vi Thùy Linh như thế". Đấy là do anh tự điều chỉnh hay là do người ta "ép" anh? Hay chỉ là một lời khen đãi bôi? Theo thuyết "Nghệ thuật tức kinh nghiệm" của John Deway, tôi nghĩ rằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đọc đã giúp anh tiến gần tới bản chất tác phẩm hơn (dù chỉ là trong khoảnh khắc), đó cũng là một biểu hiện tốt của "sự xấu hổ – cách mạng".
6. Vấn đề văn trẻ nói chung và thơ trẻ nói riêng, gần đây được tranh luận tương đối sôi nổi với nhiều nhận định khác nhau. Có khen, có chê và có cả "sổ toẹt". Điều đó chứng tỏ "thơ trẻ" đã có một cái gì đó làm cho người ta chú ý. Đó là những phản ứng lành mạnh (trên mặt bằng chán ngấy trước đó). Ấy thế mà Nguyễn Hòa không chỉ sổ toẹt thơ trẻ mà còn sổ toẹt cả phê bình chính là cái nghề mà anh đang tham vọng: "Một tập thơ có bao nhiêu bài khen, bao nhiêu bài chê, bao nhiêu bài dở khen dở chê không nói lên điều gì...". Sao lại không nói lên điều gì? Nó nói lên rằng, thơ ấy đang tồn tại trong sự phản ứng khen chê của bạn đọc. Cái quan niệm "khen là tâng bốc, lăng xê; chê mới là chân chính nghiêm túc, dạy cho một bài học" nay quá lỗi thời, cách đây 900 năm, Nghiêm Hữu Dực quyết chê thơ Tô Đông Pha đến cạn tàu, ráo máng nhằm tìm sự nổi tiếng, nhưng theo Viên Mai thì "rốt cuộc người ta chỉ biết có Tô Đông Pha mà không hề biết Nghiêm Hữu Dực". Quan niệm riêng của tôi là, phê bình văn học quan trọng nhất là nhận ra cái hay, hoặc mầm mống của cái hay (cái hay mang trong đó cái mới) mà đề cao nó, để nhiều người cùng thưởng thức. Vì cái hay, cái mới luôn luôn hiếm Còn cái dở thì tràn lan, thời nào cũng thế, cứ bơi mãi trong đó ắt có ngày sẽ bị nó nhấn chìm trong rác rưởi. Chính vì thế mà đọc thơ trẻ, tôi thường chú ý đến những tác giả có cá tính mới lạ, có ngôn ngữ mới, giọng điệu mới và tư tưởng mới. Việc tôi nhắc tên và thán phục một số nhà thơ trẻ như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly... khoảng 10 năm lại đây là với ý nghĩa chung đó, chứ không phải là không biết họ còn có những cái dở, cái hạn chế hoặc cái tôi không thích. Và tôi có thể tin được điều đó, ít nhất là đối với Nguyễn Thanh Sơn khi anh cho biết: "Tôi đọc kỹ được 5,6 người: Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải ... Trong số đó tôi thích nhất là Phan Huyền Thư..." (Phụ nữ thủ đô, 9-2001). Anh "thích nhất Phan Huyền Thư", còn tôi lại thích nhất thơ một người nào khác, điều đó còn phụ thuộc vào sở thích của mỗi người riêng lẻ. Còn vấn đề chung là không thể phủ nhận họ, bởi họ đã làm cho mình phải "đọc kỹ" thơ họ. Khi Nguyễn Thanh Sơn thích những nhà thơ trẻ mà tôi đã thích từ trước, thì đâu phải là chuyện tôi "ép" anh đọc thơ giống tôi như anh đã một lần "chỉ ra"?
7. Mọi người đều có quyền thưởng thức nghệ thuật. Nhưng không ai có quyền tự cho mình là hiểu hết nghệ thuật. Đối với một số loại hình "nghệ thuật khó" lại càng phải thận trọng hơn. Xem tranh "trừu tượng", nghe nhạc "tiền phong", đọc thơ "hiện đại"... thường phải tự kiểm tra lại mình đã hiểu được gì về các trào lưu đó. Chúng ta đôi khi quen thói chủ quan phán bừa những điều không biết rõ, để rốt cuộc chuốc lấy sự xấu hổ không đáng có. Viên Mai nói rằng: "Bài thơ chỉ đổi một chữ, giới hạn khác nhau một trời một vực, không phải người làm thơ thì không lý giải được". Hoàng Hưng ở ta cũng từng nói với một nhà phê bình trẻ: "Đọc anh, thấy anh thông minh, cái gì cũng biết, chỉ trừ thơ mà anh phê bình". Những câu nói ấy, đáng để chúng ta sờ lại gáy mình.
8. Khi nhắc nhở người viết phải bình tĩnh, cũng có nghĩa là tự nhắc người đọc cũng phải bình tĩnh. Hai anh Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn hình như quên mất điều đó khi đọc tôi và cho rằng tôi "trui rèn các kỹ xảo ngoa dụ, ngoa ngôn" (Ng. Hòa), hoặc "đại ngôn" (N.T. Sơn). Nguyễn Thanh Sơn viết: "Tôi cũng rất thông cảm với nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo trong khao khát "giải mã" cho "những bài thơ có tính phức điệu của nhạc giao hưởng". Dù ngờ rằng chẳng qua đó là tính đại ngôn của anh". Anh Sơn do "sốc" mà quên mất rằng, "giải mã" hay "tính phức điệu" là những thuật ngữ chứ không phải là "đại ngôn"; và với những thuật ngữ quen thuộc ấy mà anh "có thể không cảm thụ nổi" mặc dù anh tự nhận mình là "một dàn nhạc cổ điển" thì kể cũng kỳ (!) Tôi đồ rằng đấy là anh tự diễu anh cho vui, chứ viết như thế cho nhiều người đọc thì chắc anh cũng chẳng nỡ chút nào, chỉ tổ làm người đọc phải xấu hổ giùm.
9. Cuối cùng, tôi muốn nói đến tính dễ tự ái của người viết phê bình. Người viết phê bình thường cho mình toàn quyền phán xét tác phẩm của người khác, nhưng hễ người khác phán xét tác phẩm của mình thì lại dễ nổi xung. Đấy là tính dễ tự ái. Cả hai anh Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn cũng không thoát khỏi đức tính ấy. Đấy là trường hợp tôi không đồng tình với Nguyễn Hòa (Ngọc Oanh) khi phê phán quá quắt và vô nguyên tắc thơ Văn Cầm Hải, và Nguyễn Thanh Sơn sổ toẹt thơ Vi Thùy Linh, hai nhà thơ trẻ có tài, có học, và có thức trong "thơ trẻ" gần đây, thậm chí có anh còn đòi cả "các ngành hữu quan" (nghĩa là pháp luật) can thiệp vào thơ của họ. Khi tôi nhận định: "Hiện nay cây bút phê bình trẻ không nhiều, và còn mang đậm tính báo chí chứ chưa thành tác giả, nhà văn lý luận phê bình", nhiều người cũng thừa nhận như thế. Riêng anh Nguyễn Hòa bị chạm tự ái, liền kêu cứu mỉa mai: "Anh Nguyễn Trọng Tạo ơi... Anh không coi họ là tác giả, là nhà văn lý luận phê bình cũng không sao, căn bệnh háo danh ấy xin dành cho người viết nào đang nuôi tham vọng nổi tiếng trên văn đàn". Ô hay, người viết phê bình mà trở thành một tác giả, một nhà văn lý luận phê bình "nổi tiếng trên văn đàn" thì thật là đáng quý chứ đâu phải là "căn bệnh háo danh"? Còn những người chỉ viết phê bình cho vui, được chăng hay chớ, không muốn thành một tác giả chuyên nghiệp thì cũng chẳng ai ép họ được. Tài năng vốn không ở ngoài mình. Những nhà phê bình cũng thế, họ phải tự rèn luyện, lắng nghe và suy ngẫm mới thành tài. Nói như Lưu Hà Thường: "Người có lòng dạ hư không, biết xấu hổ, biết nghe lời người ta chỉ trích, ấy là người có thiên tài vậy"; Nhưng người có được "lòng dạ hư không" trong thiên hạ đâu phải là nhiều! Chính vì thế mà tôi đặt ra vấn đề: "Có nên đánh thức tính xấu hổ"...
Hà Nội, tháng 9-2001
N.T.T

(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)


-----------------------------------------
- Sao cứ ép tôi hiểu thơ giống ông – Nguyễn Thanh Sơn – Tia sáng, 8-2001
- Về một chàng hiệp sĩ – thi sĩ cưỡi Rôxinantê đỡ đầu cho "thơ trẻ" –
Nguyễn Hòa – Tia sáng, 9-2001.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!