Có nên đánh thức tính xấu hổ trong phê bình

11:20 29/07/2008
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc 2 bài viết của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa)*


1. Gọi xấu hổmắc cỡ, ôốc duộc hay ngượng cũng chả sao, nhưng hai từ xấu hổ có vẻ mạnh hơn, đi thẳng vào bản chất hơn. Xấu hổ là một thuộc tính của con người, nó ngược lại với trơ trẽn, trâng tráo. Ấy vậy mà không ít người rất sợ nói tới "bài học của sự xấu hổ". Biết xấu hổ, chính là một hành động phục thiện. C.Marx còn cho đấy là một dạng thức cách mạng ("Sự xấu hổ – đó cũng là một dạng của cách mạng").
2. Trong phê bình văn học, việc hiểu đúng hoặc hiểu sai một tác phẩm, một tác giả, một trào lưu hay một thời đại đều có thể xảy ra. Vì một người hay một nhóm người không phải là tất cả, và chân lý đôi khi lại nằm ngay dưới gấu váy của mẹ Đốp. Có lẽ vì thế chăng mà ở phương Tây thế kỷ XX đã xuất hiện hàng chục trường phái phê bình văn học như Phân tâm học (analytical psychology), Ngữ nghĩa học (semantics), Phê bình mới (New criticism), Chủ nghĩa thực dụng (Pragmatism), Hiện tượng luận (Phenomenology), Chủ nghĩa hiện sinh (Existentialism), Ký hiệu học (Sémiotics), Giải thích học (Hermeneutics), Mỹ học tiếp nhận (Receptive Esthetics), Xã hội học văn học (Sociology of literature), v.v... và v.v... Mỗi trường phái ra đời đều mang tới sự phủ định và phát triển; nhưng nhìn chung không có trường phái nào là tuyệt đối, mà chỉ là thêm vào, làm giàu có phương pháp luận phê bình của nhân loại. Nếu các học giả phương Tây không biết xấu hổ trước những gì đã lỗi thời, phi khoa học thì làm sao có thể phủ định nó để mở ra những sáng tạo mới như từ Phê bình mới đến Phê bình mới "mới"?
3. Không ai đủ can đảm để tự cho mình là hoàn toàn đúng. Tôi vẫn thường hoài nghi tôi khi viết phê bình văn học, bởi tôi là một người sáng tác. Tất nhiên, người sáng tác viết về người sáng tác có lợi thế riêng về sự chia sẻ từ tâm lý sáng tạo nghề nghiệp, dễ hiểu nhau hơn. Trường hợp Nguyễn Tuân nói về đồng nghiệp Nguyên Hồng thì thật là chí lý: "Tôi là một thằng thích phá đình phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông". Lại cũng Nguyễn Tuân đã có lúc diễu đùa các nhà phê bình quá "tự tin" rằng "Khi tôi chết hãy chôn theo tôi một nhà phê bình để còn được tiếp tục cãi nhau". Tôi không nghĩ các anh Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Hòa khi viết phê bình đều tự cho mình là hoàn toàn đúng. Bởi ngay khi phê bình bài phê bình của tôi với tựa đề "Sự ngộ nhận trong phán xét văn trẻ", Nguyễn Hòa đã nhiều lần dẫn sai tựa đề này thành ra "sự ngộ nhận trong phán xét thơ trẻ". Văn là nói chung về văn chương, còn thơ là thơ mà thôi. Cũng như trước đây khi anh Nguyễn Hòa viết bài phê phán những bài thơ đang ở dạng bản thảo chưa hoàn chỉnh của Văn Cầm Hải "Phải chăng đó là thơ" anh không đủ can đảm ký tên Nguyễn Hòa mà phải khoác cho mình một cái tên ái nam ái nữ Ngọc Oanh gì đó. Hoặc giả khi Nguyễn Thanh Sơn tự vu lên là tôi "ép" anh phải đọc thơ giống tôi, thì chính anh lại ép tôi "nên viết một bài nói về cái đẹp của tập thơ Linh (mà anh thấy) để (ngấm ngầm) giảng giải cho tôi...". (Về vấn đề này tôi sẽ trao đổi lại ở dưới bài viết này). Nếu biết tự xấu hổ, thì tôi tin người ta sẽ bớt chủ quan hơn về sự khả tín của chính mình.
4. Phê bình là khoa học của cảm thụ và phân tích. Nó trái ngược với sự hiểu biết mơ hồ mà lại quá tự tin, nói phứa đi nhằm lấp liếm người đọc. Khi Nguyễn Hòa khẳng định: "thơ trẻ" (ở ta – NTT) trở về với những đài tưởng niệm cách đây dăm ba chục năm người phương Tây đã từng dựng lên để nhớ tới "thơ điện", "thơ man rợ" – những thứ thơ mà các nhà thơ như Marinetti, Pélieu, Merssagier... đã chế tạo ra", và cho rằng nó đã "lỗi thời", thì xem ra anh hiểu khá nông cạn về nhà thơ lớn người Ý từng sống ở Pháp có tên là Marinetti (1876-1944). Ông là một nhà thơ theo chủ nghĩa tượng trưng, sau đó là tổ sư của chủ nghĩa vị lai Ý (1909). Còn trường phái Barbarisme (có lẽ Nguyễn Hòa đã nhầm với từ Barbarie nghĩa là sự dã man chăng?) trong đó người ta hay nhắc đến Marinetti hay nhạc sĩ Stavinsky, là một trường phái cách tân, dùng từ ngữ phản qui tắc, chối ngịch với quan niệm "tao nhã" của nghệ thuật đương thời cuối thập kỷ 20. Trường phái này quan tâm đến những hình ảnh và tư tưởng hơn là những ước lệ của niêm luật, với hình thức thơ tự do thiên về hình ảnh mang màu sắc nhục cảm. Đây là một cuộc cách mạng đưa thơ thoát khỏi qui củ cứng nhắc của cú pháp, chấm câu và cả logic nữa. Thử dịch nghĩa một câu thơ của Marinetti: "Những ngọn tháp như những ngọn giáo đen đâm vào làm đau xé da thịt mệt mỏi của chiều". Thơ như thế thì chẳng có gì là "man rợ", "lỗi thời" cả. Tôi không nghĩ là "thơ trẻ" ở ta lặp lại thơ "lỗi thời" của Tây, nhưng nếu họ có học tập những cái hay, cái độc đáo của thế giới thì chẳng có gì là đáng phủ nhận họ một cách "man rợ" như vậy. Nếu không học thơ phương Tây thế kỷ XIX thì làm gì có Thơ mới (1932-1941) ở Việt ta?
Do muốn đẩy "thơ trẻ" ta lùi về giữa thế kỷ XX, Nguyễn Hòa "thử làm một đối chiếu" mấy câu "thơ trẻ" với "thơ điện" ra đời cách đây đã hơn 40 năm: Vé nổ đặt rất ít thời gian thế là tôi đến chào anh buổi tối – Những mảnh bệnh cúm Tây Ban Nha xám không muốn chụp ảnh – Hãy đốt gió trong ống nêông xanh (vân vân – NTT)" và anh mở ngoặc: (Nguyên bản – Pélieu). Trước hết đấy là bản dịch tiếng Việt chứ không phải "nguyên bản" (bởi nguyên bản bằng tiếng Pháp). Hai là những loại thơ "phản qui tắc ngữ pháp" không thể dễ dịch. Ta tạm tin vào bản dịch, và đem "đối chiếu" với mấy câu "thơ trẻ" như: Người dương cầm lên cơn tổng phổ; Chùm hoa tigôn cũng đỏ màu tập thể... của Văn Cầm Hải, và Chưa bao giờ như chiều nay – Đàn kiến tha mặt trời qua mùa hè run rẩy; Mặt trời vỡ hàng triệu mảnh bọc thân thể tôi rát bỏng – Cát bay lên như những linh hồn... của Vi Thùy Linh thì rõ ràng là chúng rất khác nhau. Thơ trẻ ta khá rõ nghĩa, dễ hiểu chứ không rối rắm mất trật tự như thơ Pélieu theo bản dịch mà anh Hòa đã dẫn ra. Ấy thế mà Nguyễn Hòa hạ bút: "hẳn thấy chúng không khác nhau nhiều lắm". Rồi không rõ nguyên cớ gì anh lại kéo Thanh Thảo vào đây để hạ sát: "Tình trạng này cũng cũ như cái bài thơ anh Thanh Thảo ăn theo thơ trẻ đã "trục vớt' được. Thanh Thảo không ăn theo thơ trẻthơ trẻ cũng chẳng ăn theo Thanh Thảo. Có lẽ thơ nào đọc tự mình không hiểu thì Nguyễn Hòa đều cho là ăn theo nhau. Hóa ra cái "sở hiểu" cũng không phải ai cũng tốt. Tôi tự nghĩ rằng cái "sở hiểu" của mình thật có hạn, cái "sở đọc" lại càng có hạn hơn, vì càng đọc càng thấy mình ngu dốt trước tri thức mênh mông của thiên hạ. Tôi không rõ "sở đọc" của Nguyễn Hòa đến đâu, nhưng khi anh viết: "Có cái gì đó khôi hài khi Nguyễn Trọng Tạo khen ngợi những câu thơ trẻ nhưng qua đó lại bộc lộ cái "sở đọc" còn quá hạn hẹp. Nếu biết tự xấu hổ, chắc chẳng ai dám khoe cái "sở đọc" rộng hoác của mình. Đọc mà không hiểu thì thà không đọc còn hơn.
5. Nguyễn Thanh Sơn là một người trẻ, gần đây đăng một số bài viết phê bình. Gọi anh là "nhà phê bình" hay "nhà phê bình trẻ" cũng chẳng sao. Nhưng theo tôi, từ "nhà" ở ta dạo này bị lạm dụng. Mới kiếm được vài tấm tôn bóng loáng, chưa thấy rường cột đâu cũng được gọi "nhà" nhan nhản. Nguyễn Thanh Sơn thì khác, chỉ mấy bài viết đã thấy văn anh có giọng khác. Có dấu hiệu "rường cột" (!) Anh luôn đòi đối thoại trong phê bình "cần một thái độ tôn trọng những ý kiến khác với ý kiến của mình”, nghĩa là thái độ văn hóa. Nhưng khi người khác không tán thành (hay trái ngược) với ý kiến của anh, anh lại cho rằng họ "thiếu bình tĩnh" và "thiếu văn hóa". Như vậy hóa ra anh là người "ăn bánh mì nóng" chứ cũng chẳng chịu đợi cho bánh "dịu đi, mềm ra" để nó "dậy hương thơm ngon lành của bánh" như bài học văn hóa tư chiếc bánh mì Nga mà anh đã viện dẫn. Chính vì thế mà anh khăng khăng phủ nhận thơ Vi Thùy Linh là "một món nộm thơ nhạt nhẽo" trên báo nhưng tôi lại lấy làm lạ khi anh phát ngôn trên đài BBC rằng: "Thế mạnh của Vi Thùy Linh theo tôi là biết nói về những cảm xúc, biết nói về những dục vọng của thế hệ mình. Tôi rất trân trọng sự cởi mở, sự chân thực của Vi Thùy Linh như thế". Đấy là do anh tự điều chỉnh hay là do người ta "ép" anh? Hay chỉ là một lời khen đãi bôi? Theo thuyết "Nghệ thuật tức kinh nghiệm" của John Deway, tôi nghĩ rằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đọc đã giúp anh tiến gần tới bản chất tác phẩm hơn (dù chỉ là trong khoảnh khắc), đó cũng là một biểu hiện tốt của "sự xấu hổ – cách mạng".
6. Vấn đề văn trẻ nói chung và thơ trẻ nói riêng, gần đây được tranh luận tương đối sôi nổi với nhiều nhận định khác nhau. Có khen, có chê và có cả "sổ toẹt". Điều đó chứng tỏ "thơ trẻ" đã có một cái gì đó làm cho người ta chú ý. Đó là những phản ứng lành mạnh (trên mặt bằng chán ngấy trước đó). Ấy thế mà Nguyễn Hòa không chỉ sổ toẹt thơ trẻ mà còn sổ toẹt cả phê bình chính là cái nghề mà anh đang tham vọng: "Một tập thơ có bao nhiêu bài khen, bao nhiêu bài chê, bao nhiêu bài dở khen dở chê không nói lên điều gì...". Sao lại không nói lên điều gì? Nó nói lên rằng, thơ ấy đang tồn tại trong sự phản ứng khen chê của bạn đọc. Cái quan niệm "khen là tâng bốc, lăng xê; chê mới là chân chính nghiêm túc, dạy cho một bài học" nay quá lỗi thời, cách đây 900 năm, Nghiêm Hữu Dực quyết chê thơ Tô Đông Pha đến cạn tàu, ráo máng nhằm tìm sự nổi tiếng, nhưng theo Viên Mai thì "rốt cuộc người ta chỉ biết có Tô Đông Pha mà không hề biết Nghiêm Hữu Dực". Quan niệm riêng của tôi là, phê bình văn học quan trọng nhất là nhận ra cái hay, hoặc mầm mống của cái hay (cái hay mang trong đó cái mới) mà đề cao nó, để nhiều người cùng thưởng thức. Vì cái hay, cái mới luôn luôn hiếm Còn cái dở thì tràn lan, thời nào cũng thế, cứ bơi mãi trong đó ắt có ngày sẽ bị nó nhấn chìm trong rác rưởi. Chính vì thế mà đọc thơ trẻ, tôi thường chú ý đến những tác giả có cá tính mới lạ, có ngôn ngữ mới, giọng điệu mới và tư tưởng mới. Việc tôi nhắc tên và thán phục một số nhà thơ trẻ như Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly Hoàng Ly... khoảng 10 năm lại đây là với ý nghĩa chung đó, chứ không phải là không biết họ còn có những cái dở, cái hạn chế hoặc cái tôi không thích. Và tôi có thể tin được điều đó, ít nhất là đối với Nguyễn Thanh Sơn khi anh cho biết: "Tôi đọc kỹ được 5,6 người: Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải ... Trong số đó tôi thích nhất là Phan Huyền Thư..." (Phụ nữ thủ đô, 9-2001). Anh "thích nhất Phan Huyền Thư", còn tôi lại thích nhất thơ một người nào khác, điều đó còn phụ thuộc vào sở thích của mỗi người riêng lẻ. Còn vấn đề chung là không thể phủ nhận họ, bởi họ đã làm cho mình phải "đọc kỹ" thơ họ. Khi Nguyễn Thanh Sơn thích những nhà thơ trẻ mà tôi đã thích từ trước, thì đâu phải là chuyện tôi "ép" anh đọc thơ giống tôi như anh đã một lần "chỉ ra"?
7. Mọi người đều có quyền thưởng thức nghệ thuật. Nhưng không ai có quyền tự cho mình là hiểu hết nghệ thuật. Đối với một số loại hình "nghệ thuật khó" lại càng phải thận trọng hơn. Xem tranh "trừu tượng", nghe nhạc "tiền phong", đọc thơ "hiện đại"... thường phải tự kiểm tra lại mình đã hiểu được gì về các trào lưu đó. Chúng ta đôi khi quen thói chủ quan phán bừa những điều không biết rõ, để rốt cuộc chuốc lấy sự xấu hổ không đáng có. Viên Mai nói rằng: "Bài thơ chỉ đổi một chữ, giới hạn khác nhau một trời một vực, không phải người làm thơ thì không lý giải được". Hoàng Hưng ở ta cũng từng nói với một nhà phê bình trẻ: "Đọc anh, thấy anh thông minh, cái gì cũng biết, chỉ trừ thơ mà anh phê bình". Những câu nói ấy, đáng để chúng ta sờ lại gáy mình.
8. Khi nhắc nhở người viết phải bình tĩnh, cũng có nghĩa là tự nhắc người đọc cũng phải bình tĩnh. Hai anh Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn hình như quên mất điều đó khi đọc tôi và cho rằng tôi "trui rèn các kỹ xảo ngoa dụ, ngoa ngôn" (Ng. Hòa), hoặc "đại ngôn" (N.T. Sơn). Nguyễn Thanh Sơn viết: "Tôi cũng rất thông cảm với nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo trong khao khát "giải mã" cho "những bài thơ có tính phức điệu của nhạc giao hưởng". Dù ngờ rằng chẳng qua đó là tính đại ngôn của anh". Anh Sơn do "sốc" mà quên mất rằng, "giải mã" hay "tính phức điệu" là những thuật ngữ chứ không phải là "đại ngôn"; và với những thuật ngữ quen thuộc ấy mà anh "có thể không cảm thụ nổi" mặc dù anh tự nhận mình là "một dàn nhạc cổ điển" thì kể cũng kỳ (!) Tôi đồ rằng đấy là anh tự diễu anh cho vui, chứ viết như thế cho nhiều người đọc thì chắc anh cũng chẳng nỡ chút nào, chỉ tổ làm người đọc phải xấu hổ giùm.
9. Cuối cùng, tôi muốn nói đến tính dễ tự ái của người viết phê bình. Người viết phê bình thường cho mình toàn quyền phán xét tác phẩm của người khác, nhưng hễ người khác phán xét tác phẩm của mình thì lại dễ nổi xung. Đấy là tính dễ tự ái. Cả hai anh Nguyễn Hòa và Nguyễn Thanh Sơn cũng không thoát khỏi đức tính ấy. Đấy là trường hợp tôi không đồng tình với Nguyễn Hòa (Ngọc Oanh) khi phê phán quá quắt và vô nguyên tắc thơ Văn Cầm Hải, và Nguyễn Thanh Sơn sổ toẹt thơ Vi Thùy Linh, hai nhà thơ trẻ có tài, có học, và có thức trong "thơ trẻ" gần đây, thậm chí có anh còn đòi cả "các ngành hữu quan" (nghĩa là pháp luật) can thiệp vào thơ của họ. Khi tôi nhận định: "Hiện nay cây bút phê bình trẻ không nhiều, và còn mang đậm tính báo chí chứ chưa thành tác giả, nhà văn lý luận phê bình", nhiều người cũng thừa nhận như thế. Riêng anh Nguyễn Hòa bị chạm tự ái, liền kêu cứu mỉa mai: "Anh Nguyễn Trọng Tạo ơi... Anh không coi họ là tác giả, là nhà văn lý luận phê bình cũng không sao, căn bệnh háo danh ấy xin dành cho người viết nào đang nuôi tham vọng nổi tiếng trên văn đàn". Ô hay, người viết phê bình mà trở thành một tác giả, một nhà văn lý luận phê bình "nổi tiếng trên văn đàn" thì thật là đáng quý chứ đâu phải là "căn bệnh háo danh"? Còn những người chỉ viết phê bình cho vui, được chăng hay chớ, không muốn thành một tác giả chuyên nghiệp thì cũng chẳng ai ép họ được. Tài năng vốn không ở ngoài mình. Những nhà phê bình cũng thế, họ phải tự rèn luyện, lắng nghe và suy ngẫm mới thành tài. Nói như Lưu Hà Thường: "Người có lòng dạ hư không, biết xấu hổ, biết nghe lời người ta chỉ trích, ấy là người có thiên tài vậy"; Nhưng người có được "lòng dạ hư không" trong thiên hạ đâu phải là nhiều! Chính vì thế mà tôi đặt ra vấn đề: "Có nên đánh thức tính xấu hổ"...
Hà Nội, tháng 9-2001
N.T.T

(nguồn: TCSH số 155 - 01 - 2002)


-----------------------------------------
- Sao cứ ép tôi hiểu thơ giống ông – Nguyễn Thanh Sơn – Tia sáng, 8-2001
- Về một chàng hiệp sĩ – thi sĩ cưỡi Rôxinantê đỡ đầu cho "thơ trẻ" –
Nguyễn Hòa – Tia sáng, 9-2001.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!