Cái tên như tắm bình minh của một vùng cửa biển, muôn hồng nghìn tía hội tụ bảng lảng trên mặt nước lợ. Cỏ bờ đê ngơ ngẩn nhớ tiếng đàn của Uy Viễn Tướng công thuở nào. Đặt chân tới cửa sông Sò ta lại bồi hồi nhớ người khai khẩn mảnh đất trù phú miền chân sóng này. Đêm nằm nghe biển thở, nghe sóng vỗ ngoài xa, nghe sông Sò thì thầm kể mãi như một huyền sử qua bao tao loạn thế kỷ XVIII triều nhà Nguyễn. Có một người tài hoa say tiếng hát cung đàn, văn chương lai láng, người đó không được đẹp lòng thánh thượng nên bị đày đi dẹp loạn khăn vàng Phan Bá Vành. Người chính là Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Ông tài hoa múa trống chầu say tiếng hát cung đàn bao nhiêu, càng tài ba trong việc điều binh khiển tướng bấy nhiêu, bao phen ông làm cho nghĩa quân của Phan Bá Vành phải khốn đốn. Không làm sao thoát khỏi vòng vây của Nguyễn Công Trứ, Phan Bá Vành phải cho nghĩa quân đào huyết lộ thông ra cửa biển thoát khỏi vòng vây của Nguyễn. Các cụ bảo rằng con sông Sò ngày nay chính là lạch sông chạy ra cửa biển giúp Phan Bá Vành thoát chết.
Cửa sông Hà Lạn nằm trong vùng Sơn Nam Hạ, xưa chỉ là những bãi bờ sú vẹt, lau lách, chính là nơi ẩn náu của nghĩa quân cờ đen, cuộc chiến đẫm máu giữa triều đình nhà Nguyễn và các nghĩa binh nông dân đã kéo dài trên vùng đất này. Bao xương máu đã vùi xuống bãi bờ ven biển. Những thây người chìm vào cát biển, quấn vào sú vẹt. Sau này, khi thủy triều lên thì bãi bờ ngập vào nước biển mặn chát, thủy triều xuống thì trơ ra bờ bãi và cả những bộ xương trắng bị nước xói mòn. Có ông lão thuyền chài nghe đồn từ mạn ngược, dọc theo sông Hồng dong thuyền về tận đây, thấy bờ bãi ngút ngàn, phù sa màu mỡ, ông neo thuyền ở lại. Nhìn những bộ xương trắng lẫn trong các gốc vẹt, xót xa cho các sinh linh tội nghiệp trôi dạt không được mồ yên mả đẹp, ông cột thuyền vào cây duối ven cồn Cốc. Ngày lặng lẽ kiếm tìm hài cốt chôn cất lên những gò đất cao. Nắng mưa không quản, ông bền bỉ tích đức, ngoảnh lại đã ba năm trời, tấm lưng lão thuyền chài còng xuống, mái tóc pha khói sương thì một am thờ mọc lên giữa cồn Cốc có tên là Quy Hồn. Thời gian năm tháng, cái am nhỏ ngày xưa đã biến thành ngôi chùa Quy Hồn tọa lạc trên miền đất trù phú ngày nay.
Hình như ở đâu có lòng thành thì ở đó có Phật. Chiều rơi trên cửa Hà Lạn, cũng là lúc chuông chùa Đào Am thong thả ngân nga. Tiếng chuông loang tím cả chiều, nhuộm cả những bãi bờ ngút ngát một màu xanh sú vẹt. Tiếng chuông yên bình khiến dân vạn chài buông lưới. Tiếng chuông vọng cả sang bến đò đợi khách sang sông. Đâu đây trong khơi vơi trời nước, vài ngọn khói lam chiều vương trên bến sông Sò, thuyền nhà ai chập chờn đỏ lửa nấu cơm.
Khách phương xa dừng lại vãn cảnh chùa sẽ ngỡ ngàng trước những chú tiểu đeo cặp xách tung tăng chân sáo bước qua tam quan. Những bước chân nhỏ bé đó chậm dần, chậm dần lui vào hậu viện cất sách vở và chỉ ít lâu sau đám lá bồ đề đã được các chú tiểu vun thành đống khói. Từng ngọn khói trắng, quyện trong chiều chạng vạng, thăm thẳm ánh nhìn của sư cụ trụ trì. Vạt áo nâu sờn, cánh tay buông thõng, nắng chiều nhuộm ánh nhìn bàng bạc của nhà sư. Nhìn đám khói trắng, lòng nhà sư vời vợi nhớ tới cánh rừng Trường Sơn mù mịt khói độc của đế quốc Mỹ, nhớ tới cánh tay để lại ngoài chiến trường. Khói bồ đề bốc cao, tiếng trẻ con cười đùa ngoài tam quan khiến lòng nhà sư ấm lại. Đôi mắt hiền từ bao dung nhìn lũ trẻ, người mỉm cười bước vào chính điện bắt đầu khóa tụng.
Ngày xưa chùa chỉ là một cái am nhỏ, bỗng mọc lên một cây đào. Cây đào ngày càng xanh tốt và rợp cả một trời hồng phai độ xuân về. Đào cổ thụ, am biến thành chùa với cái tên thật đẹp là Đào Am. Bao kẻ về đây tu hành, chỉ được một thời gian lại bỏ chùa mà đi. Lý trưởng, chánh tổng trong làng đã phải cắt cử trai đinh thay nhau làm ông hộ coi chùa theo thời gian. Những kẻ ở lâu cũng chỉ ba năm, còn không thì một năm là đổi phiên người khác.
Chỉ đến khi có một người thương binh với màu áo bộ đội bạc màu về chùa xuống tóc đi tu, thì từ bấy đến nay, chùa lúc nào cũng ngan ngát nhang đèn, ngân nga chuông mõ. Sư ông bỏ lại cánh tay nơi chiến trường, là một người đẹp trai, tài hoa thông kinh sách. Dáng vẻ đạo mạo tạo sự ngưỡng mộ cho khách thập phương. Ông nghiêm túc tu hành như một bậc chân tu đắc đạo.
Năm ấy hoa đào nở sớm, trời ấm, gió nhẹ, xuân ngọt bên thềm, lũ sáo sậu ríu ran trên cây thị sau chùa, sư thầy giật mình nghe tiếng trẻ khóc dưới gốc đào trước chùa. Sư hoảng hốt xách đèn chạy ra. Chao ôi! Đứa bé còn đỏ hỏn trong bọc tã lót, đang khóc dưới gốc đào. Sư thầy thảng thốt xót xa cúi xuống, cánh tay còn lại vội vàng lóng ngóng ẵm đứa bé áp vào ngực. Đứa bé, khát sữa càng khóc già. Tiếng khóc vò xé tâm can kẻ tu hành, khiến ông đớn đau. Làm sao giữa khuya vắng lại có kẻ tàn nhẫn bỏ con thế này. Đêm lê thê trong nỗi buồn dằng dặc của nhà sư. Bao nhiêu lời ong tiếng ve đuổi theo khi nhà sư ẵm đứa bé vào xóm xin sữa. Có kẻ ác miệng còn cả quyết rằng đứa bé chính là con của nhà sư. Không một tiếng than phiền, dù nắng mưa nhà sư vẫn bồng đứa bé vào xóm nhỏ. Tiếng cười cợt đuổi theo bước chân của kẻ tu hành: Đi tu mà chẳng trọn đời, đèo bòng cho lắm vào! Để lão thầy chùa này ở lại chỉ làm ô uế cửa thiền.
Đêm nghe tiếng mưa rơi đổ hạt xuống mái tam quan, tiếng gió biển thổi về hoang lạnh. Vết thương ở chiến trường năm xưa giờ nhói buốt trong lồng ngực, đứa bé khát sữa quờ quạng ngực áo nâu sồng, khiến lòng người tu hành buốt giá. Cánh tay còn lại nương nhẹ áp đứa bé vào bờ vai của mình cố dỗ dành mong cho nó ngủ. Sư thức trắng cả đêm, mong trời mau sáng để bồng đứa trẻ vào xóm xin sữa. Bước chân của kẻ tu hành cứ bước đi trong sự dè bỉu của thiên hạ. Đứa trẻ lay lắt sống trong sự ẵm bồng của nhà sư gần ba tháng trời.
Trời trở bão, những cánh nhạn biển hối hả bay về nơi ẩn náu. Có con lẻ bạn khào khào mấy tiếng trong bão táp. Hàng phi lao oằn mình hứng chịu cơn cuồng phong của trời đất. Con đò nhỏ được cột chặt vào rễ cây đa ven sông giờ cũng bị gió giật run lên từng hồi. Thương đứa nhỏ đêm nay khát sữa, sư thầy đã chuẩn bị nước hồ, nhưng nhìn đứa trẻ chóp môi, khuôn mặt võ sữa hốc hác, lòng sư quặn thắt như bão tố đang dâng. Ông chẳng đành lòng, vội lấy mảnh vải dù đem về từ chiến trường, quấn lấy đứa trẻ cho đỡ lạnh, úp chiếc nón bồng bé vào xóm chài. Người đàn bà tức ngực ngồi vắt sữa ở sau hồi nhà chợt thấy nhà sư bế đứa trẻ vào ngõ, cô hoảng hốt kéo áo che ngực. Xin cô làm phúc, cho đứa trẻ này bú nhờ, đêm nay bão to, tôi sợ đứa bé khát sữa, nó sẽ đói khát tội nghiệp.
Ánh mắt thất thần của người đàn bà, ngước nhìn nhà sư, thấy đứa bé tóp tép môi, chị ta rơi lệ. Vội vàng đón đứa bé, áp mặt nó vào bầu sữa nóng, bàn tay nhỏ bé ấp lấy vú mẹ. Đứa bé nín như chết khát, nước mắt ướt đầm má người đàn bà. Chị quỳ xuống: Lạy thầy! Con là con đàn bà chẳng ra gì đã gieo tiếng ác cho thầy. Con xin nhận lại con của con. Người cha già nghe thấy câu nói đó, ông cúi mặt, xin tạ lỗi: Xin nhà chùa tha tội! Con gái tôi hư hèn, đã làm điều không phải. Ngày mai tôi xin vào chùa sám hối tạ lỗi.
Khuôn mặt nhà sư bình thản như chưa gánh đau khổ nào cả. Tiếng nói trầm trầm cất lên: Tôi còn ít tiền lương thương binh, chẳng tiêu gì cả, mai ông lão vào chùa mà nhận về mua sữa cho cháu bé.
Sư bước đi trong cơn lốc gió cát cửa biển, mưa mỗi lúc một nặng hạt, chớp rạch ngang trời, mù mịt giông gió, nhưng lòng sư vẫn tĩnh lặng như đi trên mặt biển bình yên. Những chiếc thuyền thúng úp lúp xúp trên bờ cát, giờ co lại rùng mình trước cơn bão đang ập tới. Biển gầm thét như muốn nhấn chìm những cánh buồm đang oằn mình trên biển chưa kịp về nơi ẩn náu. Cánh tay nhà sư chợt trống trải, nhưng lòng thì ấm lại. Có chút gì đó bình yên dâng lên trong lòng ông. Nó như ngọn lửa nhỏ reo vui. Ông thấy vững dạ vì đứa bé đã tìm được mẹ của mình. Dân ven sông Sò giờ tấm tắc khen nhà sư đức hạnh, thương người và hết lòng vì chúng sinh. Sư thầy được minh oan, tiếng tốt được truyền tụng, nhưng vẻ mặt ông vẫn bình lặng, chẳng vui cũng chẳng buồn, tĩnh lặng như hồ thu không gợn sóng.
Sư thầy ngày thêm tuổi, nhiều lần cơn sốt rét của chiến trường năm xưa lại quay về quấy nhiễu hành hạ ông nhưng ông vẫn gắng gượng vượt qua. Đạo và đời luôn giao hòa trong lòng bậc tu hành chùa Đào Am. Sau lần đứa bé nhặt dưới gốc đào được mẹ nó nhận lại con mình, thì lại thêm những đứa trẻ khác được đem về chùa nhờ nuôi hộ. Cánh tay của trụ trì giờ tất bật hơn, mảnh ruộng chùa cũng được thập phương đến làm giúp, thóc lại vào bồ, rau đậu vườn chùa nuôi những đứa trẻ lớn lên trong sự bảo bọc từ bi của sư cụ. Những đứa trẻ không may mắn bị bỏ rơi giờ được yêu thương chăm bẵm trong tay của sư cụ, giọt nước cành dương phước lành đã tỏa sáng cho những đứa trẻ bị bỏ rơi. Thấy lũ trẻ sáng láng, học hành tấn tới, nhà sư thấy vững dạ, trong những khóa tụng ông luôn hướng lòng cảm tạ Đấng Thế Tôn phù hộ độ trì cho các ún tiểu chùa Đào Am.
Bao lần thủy triều lên, bao lần thủy triều xuống, lòng người chơi vơi như con nước ngoài khơi nhưng nhà sư vẫn bền bỉ chăm chút cho những đứa trẻ không quản ngại. Trong hương khói của ngày 27 tháng 7 sư thầy làm lễ cầu siêu cho các anh linh liệt sĩ thấp thoáng bóng những chú tiểu thắp hương quanh đàn chay. Có chú tiểu ngây thơ thỏ thẻ: Cụ ơi! Sao hôm nay cụ làm giỗ to thế nhỉ? Sư thầy nhìn trẻ trìu mến ôn tồn: Ừ! Hôm nay là ngày giỗ các anh linh liệt sĩ con ạ! Thầy giỗ cả cái tay đã mất của thầy nữa các con ạ!
Trong khói hương ảo mờ, lòng sư thầy rưng rưng thương nhớ những người đồng đội của mình không bao giờ về nữa.
Đi trong mùa xuân, mê mải dọc triền sông biếc xanh sú vẹt, mơn mởn những bãi bờ ngan ngát lúa ngô, ta thả hồn theo những cánh cò trắng khi chiều về. Cái lả la của cánh cò mải miết khiến hồn người tha hương luôn nhớ về cố quận, trùng phùng một giấc mơ ấp ủ hình bóng quê nhà. Để chiều nay ập òa nỗi nhớ bời bời hoa cải. Sắc vàng của loài hoa đó đã nhuộm nắng cho dòng sông, đưa bước chân ta về với những bến sông quê, những ngôi chùa cổ của miền đất dằng dặc. Đâu đây trong thinh không, chuông chùa Đào Am đã điểm. Tiếng chuông ngân nga thoát tục, ngân trong hoàng hôn bình yên miền chân sóng. Ta chợt thấy người về sau chiến tranh vẫn hòa nhịp với cuộc đời, vẫn âm thầm dâng hiến một tình yêu cho chúng sinh. Đạo và đời đang giao hòa từ những tấm lòng từ bi nơi cửa Phật.
Mùa xuân này bạn hãy về miền chân sóng, nghe biển mặn vỗ vào bờ cát, ngắm con thuyền rẽ sóng ra khơi, nghe hương xuân dịu dàng theo bước chân, lắng nghe tiếng chuông chùa ngân nga sẽ thấy tâm hồn mình bình yên nơi cửa biển.
L.H.N
(TCSH431/01-2024)
VĨNH NGUYÊN Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.
ĐẶNG VĂN SỞ Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.
NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...
ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...
NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.
NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.
NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.
HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)
LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.
HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.
NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)
VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.
NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.
MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)
MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.