Cái tên như tắm bình minh của một vùng cửa biển, muôn hồng nghìn tía hội tụ bảng lảng trên mặt nước lợ. Cỏ bờ đê ngơ ngẩn nhớ tiếng đàn của Uy Viễn Tướng công thuở nào. Đặt chân tới cửa sông Sò ta lại bồi hồi nhớ người khai khẩn mảnh đất trù phú miền chân sóng này. Đêm nằm nghe biển thở, nghe sóng vỗ ngoài xa, nghe sông Sò thì thầm kể mãi như một huyền sử qua bao tao loạn thế kỷ XVIII triều nhà Nguyễn. Có một người tài hoa say tiếng hát cung đàn, văn chương lai láng, người đó không được đẹp lòng thánh thượng nên bị đày đi dẹp loạn khăn vàng Phan Bá Vành. Người chính là Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ. Ông tài hoa múa trống chầu say tiếng hát cung đàn bao nhiêu, càng tài ba trong việc điều binh khiển tướng bấy nhiêu, bao phen ông làm cho nghĩa quân của Phan Bá Vành phải khốn đốn. Không làm sao thoát khỏi vòng vây của Nguyễn Công Trứ, Phan Bá Vành phải cho nghĩa quân đào huyết lộ thông ra cửa biển thoát khỏi vòng vây của Nguyễn. Các cụ bảo rằng con sông Sò ngày nay chính là lạch sông chạy ra cửa biển giúp Phan Bá Vành thoát chết.
Cửa sông Hà Lạn nằm trong vùng Sơn Nam Hạ, xưa chỉ là những bãi bờ sú vẹt, lau lách, chính là nơi ẩn náu của nghĩa quân cờ đen, cuộc chiến đẫm máu giữa triều đình nhà Nguyễn và các nghĩa binh nông dân đã kéo dài trên vùng đất này. Bao xương máu đã vùi xuống bãi bờ ven biển. Những thây người chìm vào cát biển, quấn vào sú vẹt. Sau này, khi thủy triều lên thì bãi bờ ngập vào nước biển mặn chát, thủy triều xuống thì trơ ra bờ bãi và cả những bộ xương trắng bị nước xói mòn. Có ông lão thuyền chài nghe đồn từ mạn ngược, dọc theo sông Hồng dong thuyền về tận đây, thấy bờ bãi ngút ngàn, phù sa màu mỡ, ông neo thuyền ở lại. Nhìn những bộ xương trắng lẫn trong các gốc vẹt, xót xa cho các sinh linh tội nghiệp trôi dạt không được mồ yên mả đẹp, ông cột thuyền vào cây duối ven cồn Cốc. Ngày lặng lẽ kiếm tìm hài cốt chôn cất lên những gò đất cao. Nắng mưa không quản, ông bền bỉ tích đức, ngoảnh lại đã ba năm trời, tấm lưng lão thuyền chài còng xuống, mái tóc pha khói sương thì một am thờ mọc lên giữa cồn Cốc có tên là Quy Hồn. Thời gian năm tháng, cái am nhỏ ngày xưa đã biến thành ngôi chùa Quy Hồn tọa lạc trên miền đất trù phú ngày nay.
Hình như ở đâu có lòng thành thì ở đó có Phật. Chiều rơi trên cửa Hà Lạn, cũng là lúc chuông chùa Đào Am thong thả ngân nga. Tiếng chuông loang tím cả chiều, nhuộm cả những bãi bờ ngút ngát một màu xanh sú vẹt. Tiếng chuông yên bình khiến dân vạn chài buông lưới. Tiếng chuông vọng cả sang bến đò đợi khách sang sông. Đâu đây trong khơi vơi trời nước, vài ngọn khói lam chiều vương trên bến sông Sò, thuyền nhà ai chập chờn đỏ lửa nấu cơm.
Khách phương xa dừng lại vãn cảnh chùa sẽ ngỡ ngàng trước những chú tiểu đeo cặp xách tung tăng chân sáo bước qua tam quan. Những bước chân nhỏ bé đó chậm dần, chậm dần lui vào hậu viện cất sách vở và chỉ ít lâu sau đám lá bồ đề đã được các chú tiểu vun thành đống khói. Từng ngọn khói trắng, quyện trong chiều chạng vạng, thăm thẳm ánh nhìn của sư cụ trụ trì. Vạt áo nâu sờn, cánh tay buông thõng, nắng chiều nhuộm ánh nhìn bàng bạc của nhà sư. Nhìn đám khói trắng, lòng nhà sư vời vợi nhớ tới cánh rừng Trường Sơn mù mịt khói độc của đế quốc Mỹ, nhớ tới cánh tay để lại ngoài chiến trường. Khói bồ đề bốc cao, tiếng trẻ con cười đùa ngoài tam quan khiến lòng nhà sư ấm lại. Đôi mắt hiền từ bao dung nhìn lũ trẻ, người mỉm cười bước vào chính điện bắt đầu khóa tụng.
Ngày xưa chùa chỉ là một cái am nhỏ, bỗng mọc lên một cây đào. Cây đào ngày càng xanh tốt và rợp cả một trời hồng phai độ xuân về. Đào cổ thụ, am biến thành chùa với cái tên thật đẹp là Đào Am. Bao kẻ về đây tu hành, chỉ được một thời gian lại bỏ chùa mà đi. Lý trưởng, chánh tổng trong làng đã phải cắt cử trai đinh thay nhau làm ông hộ coi chùa theo thời gian. Những kẻ ở lâu cũng chỉ ba năm, còn không thì một năm là đổi phiên người khác.
Chỉ đến khi có một người thương binh với màu áo bộ đội bạc màu về chùa xuống tóc đi tu, thì từ bấy đến nay, chùa lúc nào cũng ngan ngát nhang đèn, ngân nga chuông mõ. Sư ông bỏ lại cánh tay nơi chiến trường, là một người đẹp trai, tài hoa thông kinh sách. Dáng vẻ đạo mạo tạo sự ngưỡng mộ cho khách thập phương. Ông nghiêm túc tu hành như một bậc chân tu đắc đạo.
Năm ấy hoa đào nở sớm, trời ấm, gió nhẹ, xuân ngọt bên thềm, lũ sáo sậu ríu ran trên cây thị sau chùa, sư thầy giật mình nghe tiếng trẻ khóc dưới gốc đào trước chùa. Sư hoảng hốt xách đèn chạy ra. Chao ôi! Đứa bé còn đỏ hỏn trong bọc tã lót, đang khóc dưới gốc đào. Sư thầy thảng thốt xót xa cúi xuống, cánh tay còn lại vội vàng lóng ngóng ẵm đứa bé áp vào ngực. Đứa bé, khát sữa càng khóc già. Tiếng khóc vò xé tâm can kẻ tu hành, khiến ông đớn đau. Làm sao giữa khuya vắng lại có kẻ tàn nhẫn bỏ con thế này. Đêm lê thê trong nỗi buồn dằng dặc của nhà sư. Bao nhiêu lời ong tiếng ve đuổi theo khi nhà sư ẵm đứa bé vào xóm xin sữa. Có kẻ ác miệng còn cả quyết rằng đứa bé chính là con của nhà sư. Không một tiếng than phiền, dù nắng mưa nhà sư vẫn bồng đứa bé vào xóm nhỏ. Tiếng cười cợt đuổi theo bước chân của kẻ tu hành: Đi tu mà chẳng trọn đời, đèo bòng cho lắm vào! Để lão thầy chùa này ở lại chỉ làm ô uế cửa thiền.
Đêm nghe tiếng mưa rơi đổ hạt xuống mái tam quan, tiếng gió biển thổi về hoang lạnh. Vết thương ở chiến trường năm xưa giờ nhói buốt trong lồng ngực, đứa bé khát sữa quờ quạng ngực áo nâu sồng, khiến lòng người tu hành buốt giá. Cánh tay còn lại nương nhẹ áp đứa bé vào bờ vai của mình cố dỗ dành mong cho nó ngủ. Sư thức trắng cả đêm, mong trời mau sáng để bồng đứa trẻ vào xóm xin sữa. Bước chân của kẻ tu hành cứ bước đi trong sự dè bỉu của thiên hạ. Đứa trẻ lay lắt sống trong sự ẵm bồng của nhà sư gần ba tháng trời.
Trời trở bão, những cánh nhạn biển hối hả bay về nơi ẩn náu. Có con lẻ bạn khào khào mấy tiếng trong bão táp. Hàng phi lao oằn mình hứng chịu cơn cuồng phong của trời đất. Con đò nhỏ được cột chặt vào rễ cây đa ven sông giờ cũng bị gió giật run lên từng hồi. Thương đứa nhỏ đêm nay khát sữa, sư thầy đã chuẩn bị nước hồ, nhưng nhìn đứa trẻ chóp môi, khuôn mặt võ sữa hốc hác, lòng sư quặn thắt như bão tố đang dâng. Ông chẳng đành lòng, vội lấy mảnh vải dù đem về từ chiến trường, quấn lấy đứa trẻ cho đỡ lạnh, úp chiếc nón bồng bé vào xóm chài. Người đàn bà tức ngực ngồi vắt sữa ở sau hồi nhà chợt thấy nhà sư bế đứa trẻ vào ngõ, cô hoảng hốt kéo áo che ngực. Xin cô làm phúc, cho đứa trẻ này bú nhờ, đêm nay bão to, tôi sợ đứa bé khát sữa, nó sẽ đói khát tội nghiệp.
Ánh mắt thất thần của người đàn bà, ngước nhìn nhà sư, thấy đứa bé tóp tép môi, chị ta rơi lệ. Vội vàng đón đứa bé, áp mặt nó vào bầu sữa nóng, bàn tay nhỏ bé ấp lấy vú mẹ. Đứa bé nín như chết khát, nước mắt ướt đầm má người đàn bà. Chị quỳ xuống: Lạy thầy! Con là con đàn bà chẳng ra gì đã gieo tiếng ác cho thầy. Con xin nhận lại con của con. Người cha già nghe thấy câu nói đó, ông cúi mặt, xin tạ lỗi: Xin nhà chùa tha tội! Con gái tôi hư hèn, đã làm điều không phải. Ngày mai tôi xin vào chùa sám hối tạ lỗi.
Khuôn mặt nhà sư bình thản như chưa gánh đau khổ nào cả. Tiếng nói trầm trầm cất lên: Tôi còn ít tiền lương thương binh, chẳng tiêu gì cả, mai ông lão vào chùa mà nhận về mua sữa cho cháu bé.
Sư bước đi trong cơn lốc gió cát cửa biển, mưa mỗi lúc một nặng hạt, chớp rạch ngang trời, mù mịt giông gió, nhưng lòng sư vẫn tĩnh lặng như đi trên mặt biển bình yên. Những chiếc thuyền thúng úp lúp xúp trên bờ cát, giờ co lại rùng mình trước cơn bão đang ập tới. Biển gầm thét như muốn nhấn chìm những cánh buồm đang oằn mình trên biển chưa kịp về nơi ẩn náu. Cánh tay nhà sư chợt trống trải, nhưng lòng thì ấm lại. Có chút gì đó bình yên dâng lên trong lòng ông. Nó như ngọn lửa nhỏ reo vui. Ông thấy vững dạ vì đứa bé đã tìm được mẹ của mình. Dân ven sông Sò giờ tấm tắc khen nhà sư đức hạnh, thương người và hết lòng vì chúng sinh. Sư thầy được minh oan, tiếng tốt được truyền tụng, nhưng vẻ mặt ông vẫn bình lặng, chẳng vui cũng chẳng buồn, tĩnh lặng như hồ thu không gợn sóng.
Sư thầy ngày thêm tuổi, nhiều lần cơn sốt rét của chiến trường năm xưa lại quay về quấy nhiễu hành hạ ông nhưng ông vẫn gắng gượng vượt qua. Đạo và đời luôn giao hòa trong lòng bậc tu hành chùa Đào Am. Sau lần đứa bé nhặt dưới gốc đào được mẹ nó nhận lại con mình, thì lại thêm những đứa trẻ khác được đem về chùa nhờ nuôi hộ. Cánh tay của trụ trì giờ tất bật hơn, mảnh ruộng chùa cũng được thập phương đến làm giúp, thóc lại vào bồ, rau đậu vườn chùa nuôi những đứa trẻ lớn lên trong sự bảo bọc từ bi của sư cụ. Những đứa trẻ không may mắn bị bỏ rơi giờ được yêu thương chăm bẵm trong tay của sư cụ, giọt nước cành dương phước lành đã tỏa sáng cho những đứa trẻ bị bỏ rơi. Thấy lũ trẻ sáng láng, học hành tấn tới, nhà sư thấy vững dạ, trong những khóa tụng ông luôn hướng lòng cảm tạ Đấng Thế Tôn phù hộ độ trì cho các ún tiểu chùa Đào Am.
Bao lần thủy triều lên, bao lần thủy triều xuống, lòng người chơi vơi như con nước ngoài khơi nhưng nhà sư vẫn bền bỉ chăm chút cho những đứa trẻ không quản ngại. Trong hương khói của ngày 27 tháng 7 sư thầy làm lễ cầu siêu cho các anh linh liệt sĩ thấp thoáng bóng những chú tiểu thắp hương quanh đàn chay. Có chú tiểu ngây thơ thỏ thẻ: Cụ ơi! Sao hôm nay cụ làm giỗ to thế nhỉ? Sư thầy nhìn trẻ trìu mến ôn tồn: Ừ! Hôm nay là ngày giỗ các anh linh liệt sĩ con ạ! Thầy giỗ cả cái tay đã mất của thầy nữa các con ạ!
Trong khói hương ảo mờ, lòng sư thầy rưng rưng thương nhớ những người đồng đội của mình không bao giờ về nữa.
Đi trong mùa xuân, mê mải dọc triền sông biếc xanh sú vẹt, mơn mởn những bãi bờ ngan ngát lúa ngô, ta thả hồn theo những cánh cò trắng khi chiều về. Cái lả la của cánh cò mải miết khiến hồn người tha hương luôn nhớ về cố quận, trùng phùng một giấc mơ ấp ủ hình bóng quê nhà. Để chiều nay ập òa nỗi nhớ bời bời hoa cải. Sắc vàng của loài hoa đó đã nhuộm nắng cho dòng sông, đưa bước chân ta về với những bến sông quê, những ngôi chùa cổ của miền đất dằng dặc. Đâu đây trong thinh không, chuông chùa Đào Am đã điểm. Tiếng chuông ngân nga thoát tục, ngân trong hoàng hôn bình yên miền chân sóng. Ta chợt thấy người về sau chiến tranh vẫn hòa nhịp với cuộc đời, vẫn âm thầm dâng hiến một tình yêu cho chúng sinh. Đạo và đời đang giao hòa từ những tấm lòng từ bi nơi cửa Phật.
Mùa xuân này bạn hãy về miền chân sóng, nghe biển mặn vỗ vào bờ cát, ngắm con thuyền rẽ sóng ra khơi, nghe hương xuân dịu dàng theo bước chân, lắng nghe tiếng chuông chùa ngân nga sẽ thấy tâm hồn mình bình yên nơi cửa biển.
L.H.N
(TCSH431/01-2024)
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.
PHẠM THỊ CÚC KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.
THÁI VŨ Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.
PHƯƠNG HÀ (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.
PHẠM THỊ CÚC Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…
LÊ VĨNH THÁI Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.
TRƯƠNG ĐÌNH MINH Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.
ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.
TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.
PHẠM THỊ ANH NGA Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.
TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.
CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...
NGUYỄN HỮU THÔNG Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)
PHAN TÂM (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.
LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách
NGUYỄN QUANG HÀ Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.