Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Nhà văn Đỗ Chu (trái) và nhà báo Nguyễn Thanh Đạm tại Đà Lạt, 4/2019
Ấy là nói trên phương diện lý thuyết thì về cơ bản nó vậy! Thực tế không phải ai cũng đạt tới cảnh giới của cô đơn và bừng thức sáng tạo, nhất là trong cảnh huống rất cần sự hòa đồng theo kiểu xã giao nếu có nhún nhường một chút cũng chẳng ảnh hưởng gì tới mình, thậm chí còn được coi là người khôn khéo, lịch thiệp.
Thành ra giữa đám đông vây bủa mà vẫn nhẩn nha cô đơn đưa tâm trí du hành tới những bến bờ xa lạ của tâm tưởng đích thị phải là người có thừa tài năng và một cốt cách kiêu hãnh.
Kẻ tài hèn sức mọn khó lòng kham nổi trước sự gây ảnh hưởng từ đám đông và vì thế nội giới luôn bị ngoại giới tác động, gây nhiễu.
Tôi quan sát và thấy, thường thì người nghệ sĩ rất dễ xác lập sự cô đơn tự thân, nhưng lại rất khó để tách khỏi đám đông ầm ĩ, trong khi ai cũng biết sự sáng tạo chỉ có thể làm được trong im lặng nghĩ ngợi.
Nguyên do của cái sự trên là bởi trong huyết quản người nghệ sĩ, ít nhiều đều có một gã nhân văn án ngự, sợ làm người khác buồn lòng nên không nỡ từ chối những niềm vui mang bộ mặt xã giao, chiếu lệ.
Cũng do lo sợ người khác buồn lòng, vô hình trung, người nghệ sĩ tự đẩy cái tôi cá biệt ra khỏi mình để chạy theo ve vuốt niềm vui giả do kẻ khác tạo ra.
Nhà văn Đỗ Chu không thế! Giữa đám đông ầm ĩ hay một mình cô đơn thăm thẳm, ông luôn là một Đỗ Chu kiêu hãnh, không dễ để thỏa hiệp với bất cứ ai và bất cứ điều gì không phải mình, cả trong văn chương lẫn trong đời sống.
Chính vì điều này, những ai chưa hiểu tính rõ nết, hoặc mới lần đầu tiếp xúc với nhà văn Đỗ Chu, ít nhiều có chung cảm giác... khó chịu.
Cái sự... khó chịu đó, một lần nữa được nhạc sĩ Đình Nghĩ kiểm chứng. Chẳng là, giữa tháng 4 năm 2019, nhà văn Đỗ Chu vào Đà Lạt chơi. Biết ông vào Đà Lạt, nhiều văn nghệ sĩ ở Lâm Đồng đã tìm đến nghe Đỗ Chu nói chuyện văn chương.
Ông thông tuệ, lại có lối dẫn chuyện rất duyên trong ngôn ngữ, trong hình tượng, trong tình tiết, bố cục; rồi cả cách nhấn câu, nhả chữ cũng rất sóng sánh nên nghe Đỗ Chu nói chuyện văn chẳng khác gì đọc văn ông: chỉn chu, kỹ lưỡng, mực thước và trau chuốt... rất thú.
Câu chuyện văn chương đang nắc nỏm, nhà văn Đỗ Chu chợt dừng lại nói có việc phải đi tìm mua một chiếc veston để mặc cho đỡ lạnh, vì mới từ Sài Gòn lên Đà Lạt và không mang theo áo khoác ngoài.
Bấy giờ, mọi người mới nhận ra sự sơ ý của mình, vì để ông mải nói chuyện văn trong khi chỉ mặc phong phanh mỗi chiếc áo sơ mi mỏng. Trên đường ra chợ Đà Lạt, nhà văn Đỗ Chu nêu yêu cầu: “Đó phải là loại veston cũ, có sợi bằng cotton. Ta không có cảm tình với đồ veston mới!”.
Mất cả buổi sáng sục sạo khắp các quầy sạp bán veston cũ tại chợ đồ xôn Đà Lạt và một số cửa hàng bán đồ xôn trong nội đô, nhà văn Đỗ Chu vẫn chưa thể tìm được chiếc veston ưng ý.
Mặc dù nếu có tìm được chiếc áo ưng ý, ông cũng chỉ sử dụng trong vòng 24 tiếng đồng hồ, trở về Hà Nội thời tiết nóng nực, chiếc veston không còn ý nghĩa nữa.
Tuy vậy, với nhà văn Đỗ Chu, việc chọn áo cũng không thể qua quýt, sơ lược. Ông thà chịu lạnh, chứ nhất quyết không chịu khoác vào người chiếc áo không phù hợp.
Thế rồi, nhà văn Đỗ Chu vẫy tay đón taxi đến nhà riêng của nhà báo Nguyễn Thanh Đạm chơi. Tại đây, nhạc sĩ Đình Nghĩ bảo sẽ tặng ông một chiếc veston vừa ý và tức tốc trở về nhà để lấy áo.
Quả nhiên, một lúc sau, nhạc sĩ Đình Nghĩ quay lại với chiếc veston rất đẹp, trước sự trầm trồ của những người có mặt ở đấy. Mọi người nghĩ, thể nào nhà văn Đỗ Chu cũng sẽ thích chiếc áo kia thôi, bởi nhạc sĩ Đình Nghĩ xưa nay có tiếng kỹ tính, chỉn chu, gu ăn mặc lại khá gần gu của nhà văn Đỗ Chu.
Cầm chiếc áo trên tay, nhà văn Đỗ Chu thừa nhận áo có màu đẹp, chất lượng vải tốt nhưng cảm ơn và từ chối. Quá ngạc nhiên, mọi người hỏi lý do, ông bèn thủng thẳng đáp: “Áo ngắn hơn người ta độ 2 phân. Đỗ Chu nó phải lụ khụ. Mặc áo này vào thì nó không còn là ông Chu nữa”.
Cứ nhìn vào tình tiết nhỏ này đủ biết nhà văn Đỗ Chu là người kỹ tính đến mức gàn bướng, khắt khe. Chẳng trách một số người vẫn bảo: Tính Đỗ Chu khó chịu và cố chấp lắm!
Tôi thì nghĩ, các tài năng lớn thường là những cá tính mạnh. Cá tính là dấu hiệu xác đáng của tài năng. Chỉ những ai thật sự mang sứ mệnh sáng tạo mới chấp nhận sống lầm lũi cô đơn trên con đường riêng của mình.
“Đã không có thân phận, không có buồn vui riêng tư, phỏng cái viết ra liệu ai đọc, cái hát lên liệu ai nghe. Mỗi nhà văn cần phải tìm một con đường riêng cho mình trong sáng tạo nghệ thuật. Điều ấy là sống còn”, nhà văn Đỗ Chu tâm sự.
Cái cá tính sáng tạo, hay con đường riêng đó, lại chỉ có thể tìm thấy trong cô đơn im lặng. Im lặng nghe tiếng vọng thẳm sâu của bản thể, Đỗ Chu đã sáng tạo nên những trang văn nhiều nghĩ ngợi, đậm lắng. Đó là cái nghĩ ngợi của người luôn biết tìm cái tĩnh trong cái động, tìm cái mấu chốt trong những ngổn ngang việc đời.
Nhà văn Đỗ Chu, tên khai sinh là Chu Bá Bình. Ông sinh năm 1944, tại xã Quảng Minh, nay là thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, hiện sống ở Hà Nội. Truyện ngắn và tùy bút của nhà văn Đỗ Chu được bạn đọc nhiều thế hệ đón nhận, với một văn phong giàu chất thơ lắm nghĩ ngợi. Ông là chủ nhân của một số giải thưởng văn chương danh giá: Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng ASEAN, Giải thưởng Hồ Chí Minh. |
Theo Trịnh Chu - GD&TĐ
(Đọc Áp tai vào đất, Lê Quang Trạng, Nxb Hội Nhà văn, 2017)
Nhà văn Nguyễn Thành Nhân (ảnh) được biết đến với tiểu thuyết Mùa xa nhà viết về những tháng năm anh làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Đây là tác phẩm đầu tay tạo được tiếng vang giúp anh tiến sâu hơn với nghề viết.
Chiều ngày 12/4, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam diễn ra tọa đàm giới thiệu hai cuốn tiểu thuyết “Phố Academy” ( tác giả Mary Costello, Hà Nguyễn dịch) và “Tuần lễ náu mình” (tác giả Maeve Binchy, Nguyễn Nhật Tuấn dịch) do Nhà xuất bản Phụ nữ cùng sự tài trợ của Đại sứ quán Ireland.
Tập sách 'Mỗi người một chỗ ngồi' mang phong vị văn chương "lạnh, sắc và tinh tế" của cây bút truyện ngắn tiêu biểu một thời.
Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy, đó là thời kỳ đầu của văn chương Sài Gòn gắn liền với thuở bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ. Trần Nhật Vy đã tìm thấy nhiều tác phẩm có giá trị văn học sử trong quá trình nghiên cứu báo chí chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19.
Nhà văn Vũ Hùng là tác giả của 40 đầu sách, trong đó có 2 tác phẩm được giải thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam: truyện đồng thoại Sao Sao (1982) truyện ký Sống giữa bầy voi (1986).
Sau một gian nghiên cứu tìm tòi thể nghiệm, nhà văn Nguyên Hương vừa “trình làng” bộ ba “Tớ muốn đi cùng trời cuối đất” dành cho lứa tuổi học trò với cách viết mới mẻ, sử dụng yếu tố kì ảo khiến tác phẩm thêm phần cuốn hút.
“Bãi vàng và những chuyện tình nho nhỏ” bao gồm 15 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng viết về tình yêu và thân phận người phụ nữ trong những cuộc tình trái ngang. Dưới ngòi bút của ông, tình yêu được miêu tả là “thuộc tính của những kẻ mang danh tính là con người,” (trích truyện ngắn “Bãi vàng”).
Truyện Linda Lê phản ánh thời biến động khó quên của một xứ sở, song hành hồi ức của một người đàn bà tâm thần, sống cô độc ở Paris.
Sáng nay (27/2), chuỗi sự kiện Ngày Thơ Việt Nam lần thứ XVI chính thức khởi động với hội thảo về thơ với chủ đề “Những vấn đề của thơ Việt Nam hiện nay” tại Hà Nội.
Ba cuốn sách của cố nhà văn Tô Hoài (“Giữ gìn 36 phố phường,” “Những ký ức không chịu ngủ yên” và “Người con gái xóm Cung”) chính thức ra mắt độc giả vào trong dịp đầu năm 2018.
“Giải thưởng sự nghiệp văn học” - một giải thưởng mới của Hội Nhà văn Việt Nam đã được trao cho nhà văn Vũ Hùng – cây viết đã bền bỉ dành cả cuộc đời mình để viết về trẻ em, muông thú, thiên nhiên.
Liên tiếp hai năm qua, Ma Văn Kháng trình làng 2 cuốn tiểu thuyết mới và mới đây một NXB cùng lúc phát hành 8 cuốn cả tiểu thuyết và truyện ngắn của cây bút có sức viết bền bỉ hàng hiếm ở Việt Nam. Nhưng Ma Văn Kháng liệu có còn phù hợp với đọc giả trẻ hôm nay, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẫn là “câu hỏi khó”. Còn nhà văn Nguyễn Khánh Tình nói “đọc Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi”.
Đầu năm 2018, nhiều tựa sách văn học nước ngoài thú vị được các nhà xuất bản trong nước giới thiệu tới độc giả Việt Nam.
Sáng 25/1, Hội Nhà văn Việt Nam đã chính thức công bố danh sách Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017.
Với 66 bài viết được chia làm 3 phần, cuốn sách “Như mây thong dong” của tác giả Lưu Đình Long do NXB Văn hóa - Văn nghệ và công ty Saigonbooks ấn hành là một trong những thông điệp đẹp và tình yêu và người trẻ hiện nay.
Tối 5/1, tọa đàm “Văn chương nói với ta điều gì về kẻ khác” được Bảo tàng thấu cảm và Khóa học mùa thu và phát triển (ASOD) đồng tổ chức nhằm hướng tới cái nhìn đa chiều và khoa học xung quanh vấn đề thấu cảm nói chung và vấn đề thấu cảm trong văn chương nói riêng.
Không hẹn mà gặp, gần như cùng một lúc NXB Kim Đồng cho ra mắt hai tập chân dung văn học “Đi tìm giấc mơ” của tác giả Trần Hoàng Thiên Kim và “Như cánh chim trong mắt của chân trời” của Văn Thành Lê.
Được viết từ trước năm 1975, bộ 3 tác phẩm truyện dài gồm “Áo tím qua đường”, “Mối tình như sương khói” và “Còn những bóng mưa tan” của nhà văn Từ Kế Tường về tình yêu tuổi mới lớn từng được đông đảo các thế hệ độc giả đón nhận.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).