Bức tranh toàn cảnh quần thể di tích Huế trước cơn đại hồng thủy thế kỷ

14:55 30/10/2009
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

Hình ảnh về trận lụt tháng 11 - 1999 ở Huế

Nước chảy đến đâu hoành hành tơi bời đến đấy. Các cung điện trong Hoàng cung nước lũ ngâm lâu đã làm cho các bờ nóc, bờ quyết bị nứt rạn, mái bị sụt gây thấm dột nghiêm trọng. Từ Điện Long An, Hiển Lâm Các, Hòa Khiêm Điện đến lầu Ngũ Phụng, Điện Thái Hòa, Thế Miếu, Hưng Miếu... phần kiến trúc bằng gỗ bên trong bị ướt dầm dề. Các cột sơn son thếp vàng ở Điện Thái Hòa gặp nước dã rạn chân chim. Nếu không cứu gỡ kịp thời sẽ bong ra từng mảng loang lở.

Nước lớn chảy mạnh ào ạt đường hào xung quanh thành làm hầu hết hệ thống lan can thành cầu bắc qua hào ở các cửa vào ra của kinh thành đều sập và sạt lở nặng.


(Thành cầu trước cửa Thượng Tứ bị đổ - Ảnh: Phan Thanh Hải)


Ngâm nước, đất nhão cộng với gió mạnh đã làm đổ 50 cây cổ thụ, tàn phá nặng nề cảnh quan những khu di tích. Hệ thống tường thành các công trình bị nứt, sát lở và đổ từng mảng lớn. Nước mang theo phù sa, đát, cát, khi rút, để lại khối lượng đất cát khổng lồ. Riêng ở Lăng Minh Mạng đất bùn ngập toàn bộ đường đi. Bùn trên sân chầu dày từ 30 phân tới 70 phân. Ao hồ và đường hào Lăng Minh Mạng, Tự Đức bùn đầy lên cả mét. Nếu không nạo vét, nước hồ sẽ nông choèn, gây ảnh hưởng tới cảnh quan.

Ai trở lại lăng Gia Long sẽ không khỏi giật mình: nóc Điện Minh Thành dột nặng, tường Tả Tùng tự vỡ, ngói mái sụt lở, vỡ nham nhở. Đá xây phần mộ vua Minh Mạng bị trôi, mộ lún từng phần. Kè đá phía Tây và lan can lăng Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (mẹ Minh Mạng) bị vỡ 3 mét 50. Miếu thờ Thiên Y A Na bị sập đổ hoàn toàn.

Hệ thống đường đi đến các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Đồng Khánh, Khải Định... đều bị sạt lở, vừa mất cảnh quan, vừa gây khó khăn cho xe cộ đi lại của khách tham quan.


Toàn bộ sự thiệt hại này lên tới 4 tỷ đồng. Chưa tính tới sự sụp đổ phía trước Minh Mạng Hòn Chén, Linh Mụ. Sự sụp lở ở lăng Minh Mạng, Điện Hòn Chén và Chùa Linh Mụ là rất đáng kể. Nước sông tàn phá đất trước cửa lăng Minh Mạng, xâm thực vào phía trong tới 300 mét. Chỉ còn cách tường thành của Lăng chừng 50, 60 mét nữa là cùng. Trước đây vài năm, công ty di tích đã khoan thăm dò sâu 7,8 mét, thấy kết cấu bên dưới là đất và bùn. Rõ ràng khu vực lăng xây dựng là khu đất bồi chứ không phải đất nguyên thổ.

Ở điện Hòn Chén. Từng mảng đất phía trước đền gần Am Ông Hạ Ban, Am Thủy Phủ, Am Cô Ngọc Lan bị lũ cuốn và sụp đổ hoàn toàn. Chân núi bị nước đào hàm ếch, thế đất đá bên trên đang rất chênh vênh. Những vết nứt hiện tại đe dọa một sự sụp đổ khó tính trước.

Tại Chùa Thiên Mụ sạt lở các cấp bậc trước chùa lối xuống sông Hương. Đường lên du lịch chùa, ở phía đông xe ô tô không chạy qua được, đường chỉ còn lại chừng 1 mét 50 đủ cho xe hai bánh qua lại. Phần đất trước tháp Phước Duyên giường như hình con rùa nhoai ra mặt sông. Nếu phần đất này không được gia cố với kiến trúc đặc biệt sẽ rất nguy hiểm cho sự tồn tại của tháp Phước Duyên và các kiến trúc phía trong.

Củng cố hoàn chỉnh giải quyết sự cố sụp đổ ở ba công trình này không thể ngày một ngày hai, đòi hỏi phải có thiết kế hết sức chu toàn mới bảo vệ lâu dài các công trình này. Công ty di tích Huế đã liên hệ với Viện kiến trúc xây dựng của nhà nước có đề án đặc biệt để cứu nguy cho sự tan vỡ trước sóng lũ của 3 công trình trên. Bạn đọc sẽ được thông tin ngay khi đề án được công bố.

Ngay sau khi nước rút, ngày 7-11-1999 Trung tâm bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã có thư gửi ông Richard Engelhardt và văn phòng UNESCO khu vực châu Á Thái Bình Dương báo cáo những thiệt hại của lũ lụt đối với quần thể di tích Huế, sự cố gắng của Huế khắc phục hậu quả và đề xuất xin 3 kiến nghị như sau:

1- Hội Đồng Di Sản Thế Giới thông qua quỹ di sản có chương trình tài trợ khẩn cấp cho khu di tích Huế.

Kêu gọi sự tài trợ, giúp đỡ của các quốc gia, các tổ chức, cá nhân trên khắp thế giới tham gia khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra làm tổn hại đến di sản thế giới ở Huế.

2- Giúp đỡ, tài trợ một số trang thiết bị cần thiết như: 1 ca nô lưu động để sử dụng trong mùa lũ; 1 bộ giàn giáo nhiều chức năng để kê kích giữ gìn các tài sản khi cần thiết, cũng như gia cố tường thành, công trình có nguy cơ sụp đổ; 1 bộ thiết bị bơm vừa bằng áp lực để gia cố công trình; các loại hóa chất chống thấm dột, hóa chất chống mối mọt; một số hòm chuyên dùng để lưu giữ phim ảnh, băng Vidéo tư liệu...

3- Cử chuyên gia có kinh nghiệm về gia cố nền móng và địa chất công trình đến Huế để đánh giá thiệt hại, nguy cơ gây hư hại, giúp đỡ lập dự án, giải pháp bảo tồn cho các khu di tích Minh Mạng, Thiên Mụ, Hòn Chén.

Từ ngay sau khi nước sông Hương rút, 600 cán bộ công nhân viên Trung tâm Di tích và UBND tỉnh chi viện cho Trung tâm 2460 sinh viên cùng tham gia khắc phục lũ lụt.

Với ý thức bảo vệ Di sản Văn Hóa Thế Giới, nhờ sự nỗ lực của toàn dân, của các lực lượng chi viện, đến nay các khu di tích đã lại mở cửa phục vụ khách tham quan.

Q.H
(130/12-1999)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.