LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, Nguyễn Đức Tùng chuyển ngữ, NXB Trẻ, 2015).
Để đạt tới vĩnh cửu thì ngoài những khai phá về kỹ thuật, văn học phải gắn liền với đời sống, dù là đời sống được nhìn nhận trên cảm quan nghệ thuật nào đi chăng nữa. Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, chúng ta biết rằng chính cuộc sống hiện tồn trong mỗi truyện ngắn của bà là yếu tố giúp nữ nhà văn này bước lên đỉnh cao của văn học nhân loại. Alice Munro được vinh danh tại giải Nobel văn học năm 2013 với thông cáo ngắn gọn của Viện Hàn lâm Thụy Điển: “Là bậc thầy của truyện ngắn đương đại.”
Với sự góp mặt của mười bốn truyện ngắn, Cuộc đời yêu dấu là tập truyện đại diện cho văn phong và tư tưởng của Alice Munro. Trên bề mặt của mỗi tác phẩm, người đọc nhận thấy lối viết của Alice Munro giản dị, kể những câu chuyện thường nhật bằng một cách kể quen thuộc trong văn học truyền thống. Nghĩa là truyện ngắn của Alice Munro luôn được khởi đi từ một câu chuyện nào đó. Một hệ thống nhân vật, tình tiết, không gian, thời gian... bao quanh câu chuyện và cùng nhau khai triển câu chuyện được kể cho tới khi truyện ngắn dừng lại với một nhịp điệu chậm rãi. Có thể nói, trong những truyện như: Về đâu, Li hương, Thị trấn bạch dương, Người tình, Cuộc đời yêu dấu, luôn có dấu vết của thi pháp tiểu thuyết, nghĩa là mọi yếu tố cấu nên truyện ngắn thường được dàn trải, nới rộng và nhiều chi tiết dư thừa được tạo ra từ cách miêu tả cụ thể, chính xác.
Alice Munro quan tâm nhiều đến thân phận con người, đặc biệt là những người vong thân, mất phương hướng, những người bị ném vào dòng hiện sinh và trở nên lệ thuộc sự sống trong khát vọng vượt thoát khỏi những giới hạn. Sự bình dị trong mỗi truyện ngắn có lẽ trước hết là do Alice Munro là nhà văn nữ. Cảm thức nữ giới khiến Alice Munro nhìn cuộc đời, nhìn số phận của con người trở nên trầm buồn, sâu lắng và nhiều tầng bậc ngầm ẩn thông qua một diễn ngôn đầy thi tính.
Nhân vật trong tập truyện này là những con người gần gũi, bình dị đến mức chúng ta có thể gặp họ trong bất cứ một không gian nào và trong bất cứ một khoảnh khắc nào. Đó là đôi vợ chồng già với nhiều âu lo, người quân nhân giải ngũ, cô giáo trong trại lao, người đàn ông tật nguyền vừa khước từ vừa khát khao đời sống... Tất cả các nhân vật đều đứng trước những sự lựa chọn để tồn sinh, đôi khi họ mạnh mẽ dấn thân nhưng đôi khi họ mất phương hướng, phó mặc cho cuộc đời, cho sự dìu dắt của số phận. Sự nắm bắt tâm lý nhân vật của Alice Munro cũng hết sức tinh tế. Những xáo trộn của các nhân vật trước ngoại cảnh, trước sự ứng xử của tha nhân được tác giả miêu tả và khai thác một cách khéo léo và đầy tự nhiên như chính cuộc đời và lòng người không ngừng vận động trong vô vàn những xúc cảm khác nhau, trái chiều với nhau. Alice Munro thường đẩy đến tột cùng và xoáy sâu vào những thay đổi cảm giác của nhân vật trước một tình tiết, một sự vụ đôi khi nhỏ nhặt nhưng có sức tác động lớn đối với chúng ta trong cách quan sát đời sống bằng sự im lặng, tỉ mỉ và kiên nhẫn nhất có thể.
Dưới chiều sâu của từng câu chữ, truyện ngắn của Alice Munro không hề đơn giản, thông thường, nhà văn này hay lồng nhiều câu chuyện vào nhau trong một truyện ngắn khiến sự phức tạp của vấn đề được đẩy lên cao hơn. Nếu xem một truyện ngắn của nữ nhà văn này là một chuyến đi thì trước khi tới đích cần phải tới, chủ nhân của cuộc đi đó thường hay rẽ vào những ngã rẽ khác, gặp khung cảnh khác, nhân vật khác, sự kiện khác, không gian ngoại cảnh và không gian tâm lý khác... khiến cấu trúc của truyện đa dạng, nhiều sự chằng chéo và mở ra nhiều biên độ tưởng tượng được bao chứa trong một không gian tổng thể. Khi đã đi qua nhiều ngã rẽ, chủ nhân của cuộc đi quay trở lại với lộ trình chính và cứ thế, cuộc đi nối tiếp nhiều cuộc đi cho tới khi tác phẩm hoàn tất.
Dịch giả Nguyễn Đức Tùng cho rằng: “Alice Munro viết về đời sống những người bình thường với ngôn ngữ giản dị, trong trẻo, đẹp. Nhưng đó là bề ngoài, dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không hời hợt. Người đọc cần chú tâm đến từng dấu hiệu mà bà để lại dọc đường. Bên trong là sức mạnh của sự phân tích các xung đột, sự nghiêm khắc với thói dung tục, tính hài hước, lòng trắc ẩn. Truyện của bà biểu hiện một nghệ thuật quan sát và mô tả thực, có khi tường tận một cách cố ý. Nhưng đằng sau bản mô tả khách quan ấy, đằng sau bức tranh về một cảnh vật cụ thể và sinh động, bản tường trình về cuộc đời, người đọc cảm nhận có một điều gì khác nữa, như một hiện thực thứ hai.”
Với mười bốn truyện ngắn trong tập sách này, chúng ta vững tin hơn về giá trị đời sống trong nghệ thuật, cụ thể là trong văn chương. Văn chương và nghệ thuật sẽ không thể nảy mầm và gieo vào lòng đất những hạt giống vững chắc nếu không có đời sống, không bắt nhịp sự vận động của đời sống. Hay nói như Raymond Carver, một trong những bậc thầy của truyện ngắn đương đại Mỹ, người mà theo Robert Houston thì nói về truyện ngắn “có lẽ khó ai qua được Raymond Carver”, thì cuộc sống, bao giờ cũng thế, phải luôn luôn là cuộc sống. Truyện ngắn của Munro gắn với nơi mà nhà văn đang lưu trú bằng một lối viết hiện thực, hầu như ít thấy bóng dáng của sự hư cấu, siêu hư cấu mà chính hiện thực cuộc sống luôn chảy âm thầm và mãnh liệt qua tâm thức nhạy bén của một nữ nhà văn lặng lẽ. Munro từng nói rằng: “Tôi muốn kể những câu chuyện theo cách cũ, điều chắc chắn sẽ xảy ra với ai đó nhưng tôi muốn điều đó được chuyển tới độc giả bằng những cách tiếp cận mới. Tôi muốn người đọc cảm thấy một câu chuyện cũ nhưng vẫn rất đáng ngạc nhiên. Đó là cách mà tôi cảm thấy mình có thể truyền tải tốt nhất qua mỗi cuốn truyện ngắn.”
Để thấy được những vẻ đẹp trong văn chương của Alice Munro thì vai trò của người chuyển ngữ rất lớn. Dịch giả Nguyễn Đức Tùng là người am hiểu về con người, văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, chính trị, kinh tế Canada, vì thế sự chuyển ngữ của ông hết sức tinh tế, giúp người đọc Việt Nam cảm nhận được nhiều hơn và sâu hơn những vẻ đẹp ẩn mật trong truyện ngắn của Alice Munro. Nguyễn Đức Tùng ngoài công việc dịch thuật còn là một người viết đa dạng thể loại với thái độ làm việc chuyên nghiệp. Những ấn phẩm của ông gần đây như: Thơ đến từ đâu (2009), Đối thoại văn chương (2012); Thơ cần thiết cho ai (2015) là những nỗ lực không mệt mỏi của ông trên con đường truy vấn giá trị thực sự của thi ca.
L.V.P
(SH322/12-15)
Điều gì đã khiến cho vở kịch có sức sống trường tồn như vậy?
Isaac Bashevis Singer (14/7/1904 - 24/7/1991) nhà văn Mỹ gốc Do Thái Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1978. Những sáng tác của ông chủ yếu viết bằng tiếng Yiddish (tiếng Đức cổ của người Do Thái).
Tổng thống thứ 44 của Mỹ có phong cách lãnh đạo đặc trưng, thu hút được hàng triệu người ủng hộ và khiến cả những đối thủ của ông cũng phải thán phục.
NGUYỄN QUỐC THẮNG
“Tất cả những gì tôi đã làm được đều là kết quả của sự cô đơn”1
(Kafka)
“Hệ thống ám dụ của Kafka thực hiện chức năng của nó như những ký hiệu vô hạn chất vấn những ký hiệu khác”2
(Roland Barthes)
Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Sau ông làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Ông bị một phần tử quá khích người Nga ám sát năm 1932. Cuốn hồi ký Xứ Đông Dương là cuốn sách viết riêng về giai đoạn ông ở Đông Dương.
TUỆ NGỌC
A. GELMAN(*)
Chúng ta là những người chứng kiến tình trạng lo ngại đang tăng lên của xã hội về khía cạnh đạo đức trong sinh hoạt của đảng ta.
LGT: Tiểu luận “Làm sao văn học khả hữu?” dưới đây là văn bản phê bình văn học đầu tiên của Maurice Blanchot được ra mắt vào năm 1941 trên Nhật báo tranh luận (Journal des débats).
Kể đến Noel năm nay, thế là tôi đã qua trọn 50 mùa Noel ở nước Đức, đất nước có truyền thống Noel lâu đời, nơi thành phố Munich, vốn có tên từ những nhà tu đạo Thiên Chúa “Mönche”, nơi có chợ Giáng sinh gọi là “Christkindelmarkt” truyền thống xa xưa (khoảng 400 năm trước), và cũng từ vùng này, bài thánh ca bất tuyệt “Stille Nacht” cất lên, vang vọng khắp trên địa cầu đã tròn 200 năm.
TRẦN HUYỀN SÂM
Vì sao phương Đông đã trở thành chủ đề trung tâm trong tiểu thuyết Pháp đương đại? Đó là nội dung bàn luận trong mùa trao giải văn học năm nay ở Paris.
L.T.S: "Cuộc đời của André Colin" là thể loại sân khấu "lưu động" một sự kết hợp của đối thoại, âm nhạc, đồ họa, trên sân khấu diễn ra đồng thời hình vẽ, tranh liên hoàn, tranh đèn chiếu và phim ảnh 16mm. Từ khi biên soạn (1987) kịch bản đã được diễn một trăm lần ở Paris và các tỉnh khác. Tác giả Anne Quesemand, thạc sĩ văn học cổ điển, là người biên kịch đồng thời là diễn viên cùng với Laurent Berman. Bà còn là tác giả của nhiều phim ngắn.
Châu Âu hẳn nhiên sẽ trở nên dễ bị tổn thương hơn trước các đe dọa và đòn tấn công của bọn khủng bố. Một số chính sách về nhập cư có thể sẽ thay đổi để thích nghi với tình hình mới.
VIỄN PHƯƠNG
Lúc 13 giờ Thụy Điển (tức 18 giờ Việt Nam), ngày 8/10 tại Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, tên của nhà văn Svetlana Alexievich đã được xướng lên dành cho giải Nobel văn chương.
Antoine Leiris đã mất đi người vợ Helene dấu yêu của mình trong vụ xả súng ở nhà hát Bataclan, Paris ngày 13/11. Con trai của họ, bé Melvil 17 tháng tuổi giờ đây đã mất đi người mẹ của mình.
MAURICE BLANCHOT
Cuốn sách mà Jean Paulhan vừa dành cho văn chương và ngôn ngữ được đọc với một tâm thế khác thường.
Ngày 1-11-1988, họa sĩ Bửu Chỉ đến Paris. Ngày 30-4-1989, họa sĩ trở về nước. Trong thời gian ở Paris, Bửu Chỉ đã sáng tác nhiều tác phẩm mới và đã có hai cuộc triển lãm tranh thành công tốt đẹp: tại Nhà Việt Nam từ 1-2 đến 5-3-1989 với 21 bức tranh và tại UNESCO với 40 bức từ 3-4 đến 14-4-1989.
QUẾ HƯƠNG
Tôi đến Mỹ 4 tháng, thăm con trai từng là nha sĩ, qua học lại, 41 tuổi mới chính thức vào trường đại học Mỹ, sống lần nửa đời sinh viên ở một đất nước có nền giáo dục hàng đầu thế giới.
NGUYỄN KHOA QUẢ
Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại từ năm 1975 đến năm 1979, chưa đầy 4 năm, phía bắc Đặng Tiểu Bình - Trung Quốc đem quân đánh phá. Phía nam Khơ me đỏ Campuchia, bọn Pôn Pốt sang đánh phá các tỉnh Kiên Giang và Tây Ninh... Quân tình nguyện Việt Nam kết hợp với Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia lật đổ chế độ Pôn Pốt năm 1979, giải phóng nhân dân thoát khỏi chế độ bạo tàn diệt chủng.
LTS: Cách đây chưa lâu, báo Bulledingue (BD) của phong trào sinh viên trong tổ chức Hội Người Việt Nam tại Pháp, có tổ chức phỏng vấn giáo sư Hoàng Xuân Hãn trên hàng loạt vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nội dung trả lời của giáo sư có thể giúp độc giả Sông Hương một số dẫn liệu mới hoặc gợi mở những cuộc trao đổi tranh luận bổ ích. Vì vậy, với sự đồng ý của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Sông Hương xin trích giới thiệu nội dung cuộc phỏng vấn này với độc giả.
Đoản văn này được George Orwell viết năm 1936 kể về khoảng thời gian ông làm việc như một nhân viên bán sách bán thời gian tại tiệm sách cũ Booklover’s Corner tọa lạc ngay góc phố Pond Street và South End Green, thành phố London, nước Anh. Hiện nay tiệm sách cũ Booklover’s Corner không còn nữa, thay vào đó là một nhà hàng pizza, tuy nhiên ở đó còn gắn một tấm biển ghi rằng “George Orwell, nhà văn (1903 - 1950) từng sống và làm việc trong một tiệm sách ngay vị trí này”.