Bắt đầu từ đời sống

10:18 22/12/2015

LÊ VIỄN PHƯƠNG

(Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, Nguyễn Đức Tùng chuyển ngữ, NXB Trẻ, 2015).

Để đạt tới vĩnh cửu thì ngoài những khai phá về kỹ thuật, văn học phải gắn liền với đời sống, dù là đời sống được nhìn nhận trên cảm quan nghệ thuật nào đi chăng nữa. Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, chúng ta biết rằng chính cuộc sống hiện tồn trong mỗi truyện ngắn của bà là yếu tố giúp nữ nhà văn này bước lên đỉnh cao của văn học nhân loại. Alice Munro được vinh danh tại giải Nobel văn học năm 2013 với thông cáo ngắn gọn của Viện Hàn lâm Thụy Điển: “Là bậc thầy của truyện ngắn đương đại.”

Với sự góp mặt của mười bốn truyện ngắn, Cuộc đời yêu dấu là tập truyện đại diện cho văn phong và tư tưởng của Alice Munro. Trên bề mặt của mỗi tác phẩm, người đọc nhận thấy lối viết của Alice Munro giản dị, kể những câu chuyện thường nhật bằng một cách kể quen thuộc trong văn học truyền thống. Nghĩa là truyện ngắn của Alice Munro luôn được khởi đi từ một câu chuyện nào đó. Một hệ thống nhân vật, tình tiết, không gian, thời gian... bao quanh câu chuyện và cùng nhau khai triển câu chuyện được kể cho tới khi truyện ngắn dừng lại với một nhịp điệu chậm rãi. Có thể nói, trong những truyện như: Về đâu, Li hương, Thị trấn bạch dương, Người tình, Cuộc đời yêu dấu, luôn có dấu vết của thi pháp tiểu thuyết, nghĩa là mọi yếu tố cấu nên truyện ngắn thường được dàn trải, nới rộng và nhiều chi tiết dư thừa được tạo ra từ cách miêu tả cụ thể, chính xác.

Alice Munro quan tâm nhiều đến thân phận con người, đặc biệt là những người vong thân, mất phương hướng, những người bị ném vào dòng hiện sinh và trở nên lệ thuộc sự sống trong khát vọng vượt thoát khỏi những giới hạn. Sự bình dị trong mỗi truyện ngắn có lẽ trước hết là do Alice Munro là nhà văn nữ. Cảm thức nữ giới khiến Alice Munro nhìn cuộc đời, nhìn số phận của con người trở nên trầm buồn, sâu lắng và nhiều tầng bậc ngầm ẩn thông qua một diễn ngôn đầy thi tính.

Nhân vật trong tập truyện này là những con người gần gũi, bình dị đến mức chúng ta có thể gặp họ trong bất cứ một không gian nào và trong bất cứ một khoảnh khắc nào. Đó là đôi vợ chồng già với nhiều âu lo, người quân nhân giải ngũ, cô giáo trong trại lao, người đàn ông tật nguyền vừa khước từ vừa khát khao đời sống... Tất cả các nhân vật đều đứng trước những sự lựa chọn để tồn sinh, đôi khi họ mạnh mẽ dấn thân nhưng đôi khi họ mất phương hướng, phó mặc cho cuộc đời, cho sự dìu dắt của số phận. Sự nắm bắt tâm lý nhân vật của Alice Munro cũng hết sức tinh tế. Những xáo trộn của các nhân vật trước ngoại cảnh, trước sự ứng xử của tha nhân được tác giả miêu tả và khai thác một cách khéo léo và đầy tự nhiên như chính cuộc đời và lòng người không ngừng vận động trong vô vàn những xúc cảm khác nhau, trái chiều với nhau. Alice Munro thường đẩy đến tột cùng và xoáy sâu vào những thay đổi cảm giác của nhân vật trước một tình tiết, một sự vụ đôi khi nhỏ nhặt nhưng có sức tác động lớn đối với chúng ta trong cách quan sát đời sống bằng sự im lặng, tỉ mỉ và kiên nhẫn nhất có thể.

Dưới chiều sâu của từng câu chữ, truyện ngắn của Alice Munro không hề đơn giản, thông thường, nhà văn này hay lồng nhiều câu chuyện vào nhau trong một truyện ngắn khiến sự phức tạp của vấn đề được đẩy lên cao hơn. Nếu xem một truyện ngắn của nữ nhà văn này là một chuyến đi thì trước khi tới đích cần phải tới, chủ nhân của cuộc đi đó thường hay rẽ vào những ngã rẽ khác, gặp khung cảnh khác, nhân vật khác, sự kiện khác, không gian ngoại cảnh và không gian tâm lý khác... khiến cấu trúc của truyện đa dạng, nhiều sự chằng chéo và mở ra nhiều biên độ tưởng tượng được bao chứa trong một không gian tổng thể. Khi đã đi qua nhiều ngã rẽ, chủ nhân của cuộc đi quay trở lại với lộ trình chính và cứ thế, cuộc đi nối tiếp nhiều cuộc đi cho tới khi tác phẩm hoàn tất.

Dịch giả Nguyễn Đức Tùng cho rằng: “Alice Munro viết về đời sống những người bình thường với ngôn ngữ giản dị, trong trẻo, đẹp. Nhưng đó là bề ngoài, dễ gây ngộ nhận. Thật ra văn của Alice Munro không hời hợt. Người đọc cần chú tâm đến từng dấu hiệu mà bà để lại dọc đường. Bên trong là sức mạnh của sự phân tích các xung đột, sự nghiêm khắc với thói dung tục, tính hài hước, lòng trắc ẩn. Truyện của bà biểu hiện một nghệ thuật quan sát và mô tả thực, có khi tường tận một cách cố ý. Nhưng đằng sau bản mô tả khách quan ấy, đằng sau bức tranh về một cảnh vật cụ thể và sinh động, bản tường trình về cuộc đời, người đọc cảm nhận có một điều gì khác nữa, như một hiện thực thứ hai.”

Với mười bốn truyện ngắn trong tập sách này, chúng ta vững tin hơn về giá trị đời sống trong nghệ thuật, cụ thể là trong văn chương. Văn chương và nghệ thuật sẽ không thể nảy mầm và gieo vào lòng đất những hạt giống vững chắc nếu không có đời sống, không bắt nhịp sự vận động của đời sống. Hay nói như Raymond Carver, một trong những bậc thầy của truyện ngắn đương đại Mỹ, người mà theo Robert Houston thì nói về truyện ngắn “có lẽ khó ai qua được Raymond Carver”, thì cuộc sống, bao giờ cũng thế, phải luôn luôn là cuộc sống. Truyện ngắn của Munro gắn với nơi mà nhà văn đang lưu trú bằng một lối viết hiện thực, hầu như ít thấy bóng dáng của sự hư cấu, siêu hư cấu mà chính hiện thực cuộc sống luôn chảy âm thầm và mãnh liệt qua tâm thức nhạy bén của một nữ nhà văn lặng lẽ. Munro từng nói rằng: “Tôi muốn kể những câu chuyện theo cách cũ, điều chắc chắn sẽ xảy ra với ai đó nhưng tôi muốn điều đó được chuyển tới độc giả bằng những cách tiếp cận mới. Tôi muốn người đọc cảm thấy một câu chuyện cũ nhưng vẫn rất đáng ngạc nhiên. Đó là cách mà tôi cảm thấy mình có thể truyền tải tốt nhất qua mỗi cuốn truyện ngắn.”

Để thấy được những vẻ đẹp trong văn chương của Alice Munro thì vai trò của người chuyển ngữ rất lớn. Dịch giả Nguyễn Đức Tùng là người am hiểu về con người, văn hóa, ngôn ngữ, địa lý, chính trị, kinh tế Canada, vì thế sự chuyển ngữ của ông hết sức tinh tế, giúp người đọc Việt Nam cảm nhận được nhiều hơn và sâu hơn những vẻ đẹp ẩn mật trong truyện ngắn của Alice Munro. Nguyễn Đức Tùng ngoài công việc dịch thuật còn là một người viết đa dạng thể loại với thái độ làm việc chuyên nghiệp. Những ấn phẩm của ông gần đây như: Thơ đến từ đâu (2009), Đối thoại văn chương (2012); Thơ cần thiết cho ai (2015) là những nỗ lực không mệt mỏi của ông trên con đường truy vấn giá trị thực sự của thi ca.

L.V.P
(SH322/12-15)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.