Ám ảnh thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

09:34 29/06/2010
HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

TS Trương Đăng Dung - Ảnh: vienvanhoc.org.vn

Chính ông cũng đã có lần bộc bạch: có lúc vài ba tháng, một năm hay hai năm làm một bài thơ. Vì thế, sau hơn 20 năm, thơ ông mới xuất hiện trên Tạp chí Sông Hương và gần đây là trên Tạp chí Thơ với những cảm xúc mới lạ, đầy tính triết lý.

Thơ ông viết ra đều như một thứ rượu quý được chưng cất. Và bây giờ rượu thơ ấy đã lên men. Say người.

Hầu hết các bài thơ của Trương Đăng Dung đều ngập bóng thời gian. Cái độc đáo và tinh tế của Trương Đăng Dung là cách cảm nhận thời gian. Với ông, thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy. Thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khoé mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi. Thời gian được ông cảm nhận trùng với thân phận con người, với tình yêu, với cuộc sống. Vì thế, nỗi trăn trở, day dứt, tiếc nuối... là âm hưởng chủ đạo trong thơ Trương Đăng Dung. Điều này thể hiện rất rõ qua các bài thơ như: Trên đồi Vọng Cảnh, Anh chiếm chỗ bóng đêm, Anh không thấy thời gian trôi, Có một thời, Những kỉ niệm tưởng tượng, Vật chứng, Thành phố phía chân trời, Ảo ảnh, Có thể, Đêm ở Roma, Ghi chép hè 2009, Chân trời, Ánh sáng này...

Theo Trần Đình Sử(1), “thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai... Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người”. Nó là sản phẩm của sự lao động miệt mài, không ngưng nghỉ của nhà thơ. Thời gian trong thơ dung chứa những tâm tình của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều có một cách cảm nhận và tổ chức thời gian riêng. Trương Đăng Dung khai thác thời gian theo tư duy triết lý của mình.

Nhiều cách cảm nhận tất yếu nảy sinh nhiều kiểu thời gian. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung được phóng chiếu tự do, không theo chiều véc-tơ. Thời gian là nỗi xót xa khi răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa, là tình yêu đồng vọng với những giọt nước qua má, qua môi/ rơi xuống bàn tay nóng ấm hơi người, là những kí ức mà nhà thơ cảm thấy tôi không còn kí ức/ tôi không còn những bông hoa gạo bởi tất cả chỉ còn những giọt máu cuối trời tuổi thơ. Nỗi niềm đó ám ảnh hiện tại: Giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay. Nhà thơ hỏi dòng sông, hỏi núi, hỏi con người về hạnh phúc nhưng tất cả đều im lặng bởi ngày vẫn thế/ và mặt trời vẫn thế... Những dấu hỏi chạy trên đường/ lặng lẽ vô tình. Và nhà thơ thấy: Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ. Rình, động từ được sử dụng rất sáng tạo khi diễn tả cái chủ động của thời gian. Thời gian luôn rình rập, kề cận trên những lối mòn không thể thấy. Nó đồng hiện quá khứ và hiện tại. Trong những khoảnh khắc hôn nhau, hơi ấm của tình yêu đã là hơi ấm của quá khứ. Thời gian không chờ ai, đợi ai và khước từ bất cứ ai. Chỉ có những tâm hồn tha thiết với cuộc sống mới cảm nhận được như thế. Có lúc nhà thơ bảo Anh không thấy thời gian trôi nhưng lại cảm nhận rất tinh tế từng thay đổi, từng bước chuyển của thời gian: Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh/sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/ mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành. Càng ý thức giá trị thời gian, Trương Đăng Dung càng ý thức mãnh liệt về sự tàn phai của tình yêu, của cuộc đời. Vì thế, nhà thơ gấp gáp hơn trước nhịp sống hối hả để lưu giữ, để hóa đá tình yêu muôn đời bằng sự cao thượng: anh chiếm chỗ bóng đêm/ anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông/ có tự ngàn đời/ để cho em rạng rỡ. Trương Đăng Dung còn muốn lưu giữ những kỉ niệm, những phút giây huyền diệu: em đừng xếp lại chăn/ em đừng chải tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ anh cần vật chứng/ trước thời gian. Nhưng thời gian như một chuyến tàu hối hả nên dẫu tôi thức với trái tim/ những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực/ không còn đủ sức/ chạy theo con tàu.

Bất kì một bài thơ hay nào cũng có biểu tượng. Biểu tượng có thể xuất hiện xuyên suốt bài thơ, một khổ thơ hay trong một câu thơ. Nguyễn Thái Hoà (2) cho rằng: “Biểu tượng văn học là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những hình ảnh, tín hiệu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ biến đến mức có khả năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất, một số đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện”. Nguyễn Vũ Tiềm (3) cũng định nghĩa tương tự: “Biểu tượng trong thơ là hình tượng có tầm khái quát rất rộng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng, gây xúc động mạnh và để lại ấn tượng sâu sắc, có sức sống lâu bền. Văn chương càng đạt tới biểu tượng nhiều mặt, càng hay”. Như vậy, khai thác biểu tượng trong thơ là một việc làm cần thiết để khám phá các tầng nghĩa do nhà thơ đem lại.

Trong thơ Trương Đăng Dung, thời gian trở thành biểu tượng. Mỗi biểu tượng thời gian đều được cấp những tư tưởng nghệ thuật riêng. Trương Đăng Dung lựa chọn các hình ảnh mang tính biểu tượng thời gian như: dòng sông, đêm, chân trời, bức tường, ánh sáng... Trong bài Những bức tường, biểu tượng bức tường lan toả toàn bài. Bức tường mà nhà thơ nhìn thấy không phải là bức tường thuần tuý mà đó là bức tường vô hình, bức tường-thời gian. Bức tường vô hình ấy có mặt khắp nơi/ trong những lời vui đoàn tụ/ trong những lời buồn chia tay. Nó không chỉ là biểu tượng của sự ngăn cách mà còn là biểu tượng của sự trống rỗng, đơn độc: Giữa những cái bắt tay/ có một bức tường.../ giữa hai chiếc gối nằm kề nhau/ có một bức tường. Bức tường trở thành bức tường tượng trưng, siêu thực nên Phạm Ngọc Hiền (4) đã cho rằng: “Bài thơ giàu hình ảnh nhưng hơi khó hiểu bởi lẽ những hình ảnh này chỉ là những ký hiệu nghệ thuật cần phải được giải mã mới có thể hiểu được ẩn ý của tác giả. Từ ký hiệu ngôn từ đến thông điệp của tác giả có một bức tường ngăn cách. Chao ôi, trong đời sống và nghệ thuật có quá nhiều bức tường!...”.

Dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung mang biểu tượng về thời gian - dòng đời. Dòng sông của hai mươi ba ngàn năm về trước chứng kiến bao hưng phế của những triều đại: sông chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm/ những đền đài quạnh quẽ. Nó làm tôi nhớ đến Con sông mình hạc xương mai/ vàng son in bóng đền đài hoa khôi.../ con sông đám cưới Huyền Trân/ bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn trong bài thơ Huyền thoại sông, huyền thoại bóng của Nguyễn Trọng Tạo. Nếu con sông của Nguyễn Trọng Tạo ám ảnh bởi dáng vẻ huyền ảo thì dòng sông của Trương Đăng Dung lại rất đời thường: chảy từ phía chân trời/ đầy nắng, mưa và gió. Không chỉ vậy, Trương Đăng Dung còn thổi vào dòng sông những ý niệm về sự xa cách, chia lìa: Anh sợ đến một ngày dòng sông ngừng trôi/ đất khô cứng, những giọt buồn hoá đá/ anh sợ đến một ngày hồn anh từ cõi lạ/ trở về đây mà không có dòng sông. Vì vậy, dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung từ hai mươi ba ngàn năm về trước đến bốn mươi sáu ngàn năm sau nữa trở thành biểu tượng của dòng đời, của con người.

Các nhà trường phái hình thức Nga rất đề cao đến tính lạ hoá trong thơ ca. Lạ hoá làm cho thơ ca độc đáo, không lặp lại. Huỳnh Như Phương (5) lý giải quan niệm lạ hoá: “Lạ hoá là một cách phản ứng lại áp lực của thói quen. Bằng cách rứt đối tượng ra khỏi bối cảnh quen thuộc của nó, bằng cách đặt cạnh nhau những khái niệm khác hẳn nhau, nhà văn xoá bỏ những sáo ngữ và hiệu ứng nhàm cũ để giúp người đọc nhận thức sâu sắc về sự vật và cơ chế cảm giác của nó... Lạ hoá kháng cự lại không chỉ sự tự động hoá của nhận thức con người về đời thực mà cả sự tự động hóa của ngôn từ và thủ pháp trong văn học”. Trương Đăng Dung đã làm được điều đó. Ông không hoàn toàn xây dựng những biểu tượng mang tính chất thời gian thuần tuý mà còn đưa những biểu tượng đó vào trò chơi trùng phức, nghĩa là biểu tượng vừa có sự di động giữa không gian và thời gian. Sự di động vị trí này khiến thơ thêm chiều sâu, giàu chất triết lý.

Đêm là biểu tượng cho bóng tối, cho sự chết chóc của những bóng ma vất vưởng/ những khán đài âm u, cho số phận tăm tối của những bóng ma thọt chân, lang thang. Nhưng đêm trong thơ Trương Đăng Dung lại là một biểu tượng trùng phức. Đêm không chỉ là đêm - thời gian mà nó còn là đêm - không gian. Đêm ấy là đêm - thời gian khi:

Anh nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng đêm chạy trốn
Những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
những đường cong như sóng vươn về phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp

Nhưng sang khổ ba, khổ bốn, đêm - thời gian lại trở thành đêm - không gian khi:

Anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có từ ngàn đời
để cho em rạng rỡ

Có phải chúng ta đang bị tự nhiên lừa
để kéo dài sự sống?
anh vẫn muốn bị lừa
để chiếm chỗ bóng đêm
để có em vĩnh viễn!
                        (Anh chiếm chỗ bóng đêm)

Theo Schopenhauer - một triết gia Đức, cuộc sống là sự lừa gạt triền miên, vô hạn. Hay nói cách khác, sự sống là đầy những đau khổ, là sự chết được phanh lại. Vì thế, con người không thể hạnh phúc trong sự thoả mãn hữu hạn. Nhưng trong cái chóng vánh của cuộc sống, Trương Đăng Dung vẫn tìm được hạnh phúc chứ không đơn thuần chỉ là sự tiếc nuối, khổ đau. Ông cảm nhận được hạnh phúc trong cái hữu hạn ấy. Chính cái hữu hạn ấy là khoảnh khắc, là không gian đẹp nhất. Không - thời gian biến tấu trong bài thơ cũng là biến tấu cõi lòng ông. Vừa muốn làm chủ cuộc sống, vừa muốn tận hưởng không gian của tình yêu. Bởi, chỉ có con người mới hiểu được, nắm bắt được sự tồn tại của bản thân và của thế giới.

Trương Đăng Dung còn đưa vào thơ mình biểu tượng thời gian phi lý. Đó là kỉ niệm mà tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054. Để xây dựng biểu tượng kỉ niệm (kỉ niệm tưởng tượng) này, nhà thơ đặt trong một cấu trúc mảnh vỡ, lắp ghép. Vì vậy, những kỉ niệm ấy càng rời rạc, phi lý. Nhưng chính cái phi lý ấy là sự cảnh tỉnh cho con người trước một cuộc sống đầy bề bộn, ngổn ngang. Mượn thời gian phi lý để chuyển tải cái phi lý của cuộc sống thật tài tình. Chính Đỗ Quyên đã nhận xét về bài thơ Những kỉ niệm tưởng tượng (Trương Đăng Dung viết cách đây 26 năm) trong bài viết Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh (6) rất tinh tế: “Phi lý thời gian khiến độc giả bị choáng ngay ở câu đầu (Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054) cho tới câu tôi với anh, rồi ngày ta sinh...! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn và khéo”. Nhờ sáng tạo thời gian phi lý, không thực nên Trương Đăng Dung mới thành công khi liệt kê các hình ảnh huyền ảo. Thời gian phi lý, chuyện phi lý vậy mà thực đến đau lòng:

Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...
                                    (Những kỉ niệm tưởng tượng)

Khi xã hội đầy rẫy những cái phi lý thì việc con người nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi... nghe lá vàng rơi lòng ta không xào xạc... đứng trước tổ chim lòng ta đầy mưu toan độc ác tất yếu phải xảy ra:

Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo
máu người nhuộm đỏ sách Kinh
bom nổ ở một chợ Bagdad
thịt người trộn vào rau quả
những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn
không thấy kẻ gây tội ác
chỉ thấy nạn nhân
và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ.

                                    (Ghi chép hè 2009)

Vì vậy, Trương Đăng Dung đau lòng thốt lên: Điều kì lạ vẫn là thế giới/ Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ. Chỉ có đôi mắt và tâm hồn trong trẻo của trẻ thơ, với sự ngạc nhiên lạ lẫm mới giúp con người thánh thiện trước cõi người trắng đen lẫn lộn.

Như vậy, cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung trở thành nguồn mạch của sự sáng tạo. Ám ảnh bởi thời gian nên hầu hết những bài thơ của Trương Đăng Dung đều có giọng điệu buồn, trầm lắng. Thơ Hoàng Vũ Thuật buồn khi trải ra với thân phận, với cái tôi đầy mâu thuẫn, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ buồn với những nỗi niềm đời thường... Thơ Trương Đăng Dung cũng buồn. Nhưng cái buồn lại nảy sinh từ những suy ngẫm về thời gian. Từ những suy ngẫm ấy, nhà thơ nâng lên thành triết lý. Mai Thị Liên Giang (7) đã nhận xét thơ Trương Đăng Dung rất tinh tế trong bài Thi sĩ và những điều có thể: “Đó là sự lặng lẽ của một tâm hồn, của một con người nặng lòng với ký ức, nặng lòng với những duyên nợ nhân gian. Lặng lẽ để chuẩn bị cho những đợt sóng ngầm dữ dội của dòng sông không biết trôi về đâu. Lặng lẽ và kiếp người”.

Trương Đăng Dung đã chọn cho mình một con đường “độc đạo”. Số lượng bài viết không nhiều nhưng quý và đắt là vì thế.

H.T.Q.A
(256/6-10)


--------------------------
(1)
Tuyển tập Trần Đình Sử (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
(2)
Từ điển tu từ - Phong cách - Thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
(3)
Đi tìm mật mã thơ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
(4) http://phamngochien.com/view/
(5)
Trường phái hình thức Nga, NXB Đại học Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2007.
(6) http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?
(7) http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=35883





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.