Ám ảnh thời gian trong thơ Trương Đăng Dung

09:34 29/06/2010
HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

TS Trương Đăng Dung - Ảnh: vienvanhoc.org.vn

Chính ông cũng đã có lần bộc bạch: có lúc vài ba tháng, một năm hay hai năm làm một bài thơ. Vì thế, sau hơn 20 năm, thơ ông mới xuất hiện trên Tạp chí Sông Hương và gần đây là trên Tạp chí Thơ với những cảm xúc mới lạ, đầy tính triết lý.

Thơ ông viết ra đều như một thứ rượu quý được chưng cất. Và bây giờ rượu thơ ấy đã lên men. Say người.

Hầu hết các bài thơ của Trương Đăng Dung đều ngập bóng thời gian. Cái độc đáo và tinh tế của Trương Đăng Dung là cách cảm nhận thời gian. Với ông, thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy. Thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khoé mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi. Thời gian được ông cảm nhận trùng với thân phận con người, với tình yêu, với cuộc sống. Vì thế, nỗi trăn trở, day dứt, tiếc nuối... là âm hưởng chủ đạo trong thơ Trương Đăng Dung. Điều này thể hiện rất rõ qua các bài thơ như: Trên đồi Vọng Cảnh, Anh chiếm chỗ bóng đêm, Anh không thấy thời gian trôi, Có một thời, Những kỉ niệm tưởng tượng, Vật chứng, Thành phố phía chân trời, Ảo ảnh, Có thể, Đêm ở Roma, Ghi chép hè 2009, Chân trời, Ánh sáng này...

Theo Trần Đình Sử(1), “thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai... Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người”. Nó là sản phẩm của sự lao động miệt mài, không ngưng nghỉ của nhà thơ. Thời gian trong thơ dung chứa những tâm tình của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều có một cách cảm nhận và tổ chức thời gian riêng. Trương Đăng Dung khai thác thời gian theo tư duy triết lý của mình.

Nhiều cách cảm nhận tất yếu nảy sinh nhiều kiểu thời gian. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung được phóng chiếu tự do, không theo chiều véc-tơ. Thời gian là nỗi xót xa khi răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa, là tình yêu đồng vọng với những giọt nước qua má, qua môi/ rơi xuống bàn tay nóng ấm hơi người, là những kí ức mà nhà thơ cảm thấy tôi không còn kí ức/ tôi không còn những bông hoa gạo bởi tất cả chỉ còn những giọt máu cuối trời tuổi thơ. Nỗi niềm đó ám ảnh hiện tại: Giọt nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay. Nhà thơ hỏi dòng sông, hỏi núi, hỏi con người về hạnh phúc nhưng tất cả đều im lặng bởi ngày vẫn thế/ và mặt trời vẫn thế... Những dấu hỏi chạy trên đường/ lặng lẽ vô tình. Và nhà thơ thấy: Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã thuộc về quá khứ. Rình, động từ được sử dụng rất sáng tạo khi diễn tả cái chủ động của thời gian. Thời gian luôn rình rập, kề cận trên những lối mòn không thể thấy. Nó đồng hiện quá khứ và hiện tại. Trong những khoảnh khắc hôn nhau, hơi ấm của tình yêu đã là hơi ấm của quá khứ. Thời gian không chờ ai, đợi ai và khước từ bất cứ ai. Chỉ có những tâm hồn tha thiết với cuộc sống mới cảm nhận được như thế. Có lúc nhà thơ bảo Anh không thấy thời gian trôi nhưng lại cảm nhận rất tinh tế từng thay đổi, từng bước chuyển của thời gian: Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh/sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/ mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành. Càng ý thức giá trị thời gian, Trương Đăng Dung càng ý thức mãnh liệt về sự tàn phai của tình yêu, của cuộc đời. Vì thế, nhà thơ gấp gáp hơn trước nhịp sống hối hả để lưu giữ, để hóa đá tình yêu muôn đời bằng sự cao thượng: anh chiếm chỗ bóng đêm/ anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông/ có tự ngàn đời/ để cho em rạng rỡ. Trương Đăng Dung còn muốn lưu giữ những kỉ niệm, những phút giây huyền diệu: em đừng xếp lại chăn/ em đừng chải tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ anh cần vật chứng/ trước thời gian. Nhưng thời gian như một chuyến tàu hối hả nên dẫu tôi thức với trái tim/ những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực/ không còn đủ sức/ chạy theo con tàu.

Bất kì một bài thơ hay nào cũng có biểu tượng. Biểu tượng có thể xuất hiện xuyên suốt bài thơ, một khổ thơ hay trong một câu thơ. Nguyễn Thái Hoà (2) cho rằng: “Biểu tượng văn học là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những hình ảnh, tín hiệu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ biến đến mức có khả năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất, một số đặc trưng khác với đối tượng biểu hiện”. Nguyễn Vũ Tiềm (3) cũng định nghĩa tương tự: “Biểu tượng trong thơ là hình tượng có tầm khái quát rất rộng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng, gây xúc động mạnh và để lại ấn tượng sâu sắc, có sức sống lâu bền. Văn chương càng đạt tới biểu tượng nhiều mặt, càng hay”. Như vậy, khai thác biểu tượng trong thơ là một việc làm cần thiết để khám phá các tầng nghĩa do nhà thơ đem lại.

Trong thơ Trương Đăng Dung, thời gian trở thành biểu tượng. Mỗi biểu tượng thời gian đều được cấp những tư tưởng nghệ thuật riêng. Trương Đăng Dung lựa chọn các hình ảnh mang tính biểu tượng thời gian như: dòng sông, đêm, chân trời, bức tường, ánh sáng... Trong bài Những bức tường, biểu tượng bức tường lan toả toàn bài. Bức tường mà nhà thơ nhìn thấy không phải là bức tường thuần tuý mà đó là bức tường vô hình, bức tường-thời gian. Bức tường vô hình ấy có mặt khắp nơi/ trong những lời vui đoàn tụ/ trong những lời buồn chia tay. Nó không chỉ là biểu tượng của sự ngăn cách mà còn là biểu tượng của sự trống rỗng, đơn độc: Giữa những cái bắt tay/ có một bức tường.../ giữa hai chiếc gối nằm kề nhau/ có một bức tường. Bức tường trở thành bức tường tượng trưng, siêu thực nên Phạm Ngọc Hiền (4) đã cho rằng: “Bài thơ giàu hình ảnh nhưng hơi khó hiểu bởi lẽ những hình ảnh này chỉ là những ký hiệu nghệ thuật cần phải được giải mã mới có thể hiểu được ẩn ý của tác giả. Từ ký hiệu ngôn từ đến thông điệp của tác giả có một bức tường ngăn cách. Chao ôi, trong đời sống và nghệ thuật có quá nhiều bức tường!...”.

Dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung mang biểu tượng về thời gian - dòng đời. Dòng sông của hai mươi ba ngàn năm về trước chứng kiến bao hưng phế của những triều đại: sông chảy vô tư bên những lăng mộ im lìm/ những đền đài quạnh quẽ. Nó làm tôi nhớ đến Con sông mình hạc xương mai/ vàng son in bóng đền đài hoa khôi.../ con sông đám cưới Huyền Trân/ bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn trong bài thơ Huyền thoại sông, huyền thoại bóng của Nguyễn Trọng Tạo. Nếu con sông của Nguyễn Trọng Tạo ám ảnh bởi dáng vẻ huyền ảo thì dòng sông của Trương Đăng Dung lại rất đời thường: chảy từ phía chân trời/ đầy nắng, mưa và gió. Không chỉ vậy, Trương Đăng Dung còn thổi vào dòng sông những ý niệm về sự xa cách, chia lìa: Anh sợ đến một ngày dòng sông ngừng trôi/ đất khô cứng, những giọt buồn hoá đá/ anh sợ đến một ngày hồn anh từ cõi lạ/ trở về đây mà không có dòng sông. Vì vậy, dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung từ hai mươi ba ngàn năm về trước đến bốn mươi sáu ngàn năm sau nữa trở thành biểu tượng của dòng đời, của con người.

Các nhà trường phái hình thức Nga rất đề cao đến tính lạ hoá trong thơ ca. Lạ hoá làm cho thơ ca độc đáo, không lặp lại. Huỳnh Như Phương (5) lý giải quan niệm lạ hoá: “Lạ hoá là một cách phản ứng lại áp lực của thói quen. Bằng cách rứt đối tượng ra khỏi bối cảnh quen thuộc của nó, bằng cách đặt cạnh nhau những khái niệm khác hẳn nhau, nhà văn xoá bỏ những sáo ngữ và hiệu ứng nhàm cũ để giúp người đọc nhận thức sâu sắc về sự vật và cơ chế cảm giác của nó... Lạ hoá kháng cự lại không chỉ sự tự động hoá của nhận thức con người về đời thực mà cả sự tự động hóa của ngôn từ và thủ pháp trong văn học”. Trương Đăng Dung đã làm được điều đó. Ông không hoàn toàn xây dựng những biểu tượng mang tính chất thời gian thuần tuý mà còn đưa những biểu tượng đó vào trò chơi trùng phức, nghĩa là biểu tượng vừa có sự di động giữa không gian và thời gian. Sự di động vị trí này khiến thơ thêm chiều sâu, giàu chất triết lý.

Đêm là biểu tượng cho bóng tối, cho sự chết chóc của những bóng ma vất vưởng/ những khán đài âm u, cho số phận tăm tối của những bóng ma thọt chân, lang thang. Nhưng đêm trong thơ Trương Đăng Dung lại là một biểu tượng trùng phức. Đêm không chỉ là đêm - thời gian mà nó còn là đêm - không gian. Đêm ấy là đêm - thời gian khi:

Anh nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng đêm chạy trốn
Những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
những đường cong như sóng vươn về phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp

Nhưng sang khổ ba, khổ bốn, đêm - thời gian lại trở thành đêm - không gian khi:

Anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có từ ngàn đời
để cho em rạng rỡ

Có phải chúng ta đang bị tự nhiên lừa
để kéo dài sự sống?
anh vẫn muốn bị lừa
để chiếm chỗ bóng đêm
để có em vĩnh viễn!
                        (Anh chiếm chỗ bóng đêm)

Theo Schopenhauer - một triết gia Đức, cuộc sống là sự lừa gạt triền miên, vô hạn. Hay nói cách khác, sự sống là đầy những đau khổ, là sự chết được phanh lại. Vì thế, con người không thể hạnh phúc trong sự thoả mãn hữu hạn. Nhưng trong cái chóng vánh của cuộc sống, Trương Đăng Dung vẫn tìm được hạnh phúc chứ không đơn thuần chỉ là sự tiếc nuối, khổ đau. Ông cảm nhận được hạnh phúc trong cái hữu hạn ấy. Chính cái hữu hạn ấy là khoảnh khắc, là không gian đẹp nhất. Không - thời gian biến tấu trong bài thơ cũng là biến tấu cõi lòng ông. Vừa muốn làm chủ cuộc sống, vừa muốn tận hưởng không gian của tình yêu. Bởi, chỉ có con người mới hiểu được, nắm bắt được sự tồn tại của bản thân và của thế giới.

Trương Đăng Dung còn đưa vào thơ mình biểu tượng thời gian phi lý. Đó là kỉ niệm mà tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054. Để xây dựng biểu tượng kỉ niệm (kỉ niệm tưởng tượng) này, nhà thơ đặt trong một cấu trúc mảnh vỡ, lắp ghép. Vì vậy, những kỉ niệm ấy càng rời rạc, phi lý. Nhưng chính cái phi lý ấy là sự cảnh tỉnh cho con người trước một cuộc sống đầy bề bộn, ngổn ngang. Mượn thời gian phi lý để chuyển tải cái phi lý của cuộc sống thật tài tình. Chính Đỗ Quyên đã nhận xét về bài thơ Những kỉ niệm tưởng tượng (Trương Đăng Dung viết cách đây 26 năm) trong bài viết Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh (6) rất tinh tế: “Phi lý thời gian khiến độc giả bị choáng ngay ở câu đầu (Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054) cho tới câu tôi với anh, rồi ngày ta sinh...! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai - 1954? Đọc tới câu giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn và khéo”. Nhờ sáng tạo thời gian phi lý, không thực nên Trương Đăng Dung mới thành công khi liệt kê các hình ảnh huyền ảo. Thời gian phi lý, chuyện phi lý vậy mà thực đến đau lòng:

Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi...
                                    (Những kỉ niệm tưởng tượng)

Khi xã hội đầy rẫy những cái phi lý thì việc con người nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi... nghe lá vàng rơi lòng ta không xào xạc... đứng trước tổ chim lòng ta đầy mưu toan độc ác tất yếu phải xảy ra:

Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo
máu người nhuộm đỏ sách Kinh
bom nổ ở một chợ Bagdad
thịt người trộn vào rau quả
những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn
không thấy kẻ gây tội ác
chỉ thấy nạn nhân
và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ.

                                    (Ghi chép hè 2009)

Vì vậy, Trương Đăng Dung đau lòng thốt lên: Điều kì lạ vẫn là thế giới/ Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ. Chỉ có đôi mắt và tâm hồn trong trẻo của trẻ thơ, với sự ngạc nhiên lạ lẫm mới giúp con người thánh thiện trước cõi người trắng đen lẫn lộn.

Như vậy, cảm thức thời gian trong thơ Trương Đăng Dung trở thành nguồn mạch của sự sáng tạo. Ám ảnh bởi thời gian nên hầu hết những bài thơ của Trương Đăng Dung đều có giọng điệu buồn, trầm lắng. Thơ Hoàng Vũ Thuật buồn khi trải ra với thân phận, với cái tôi đầy mâu thuẫn, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ buồn với những nỗi niềm đời thường... Thơ Trương Đăng Dung cũng buồn. Nhưng cái buồn lại nảy sinh từ những suy ngẫm về thời gian. Từ những suy ngẫm ấy, nhà thơ nâng lên thành triết lý. Mai Thị Liên Giang (7) đã nhận xét thơ Trương Đăng Dung rất tinh tế trong bài Thi sĩ và những điều có thể: “Đó là sự lặng lẽ của một tâm hồn, của một con người nặng lòng với ký ức, nặng lòng với những duyên nợ nhân gian. Lặng lẽ để chuẩn bị cho những đợt sóng ngầm dữ dội của dòng sông không biết trôi về đâu. Lặng lẽ và kiếp người”.

Trương Đăng Dung đã chọn cho mình một con đường “độc đạo”. Số lượng bài viết không nhiều nhưng quý và đắt là vì thế.

H.T.Q.A
(256/6-10)


--------------------------
(1)
Tuyển tập Trần Đình Sử (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
(2)
Từ điển tu từ - Phong cách - Thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
(3)
Đi tìm mật mã thơ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
(4) http://phamngochien.com/view/
(5)
Trường phái hình thức Nga, NXB Đại học Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2007.
(6) http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?
(7) http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=35883





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.