Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
Nhà thơ Huy Cận-người mang nỗi sầu thế kỷ
NHÀ THƠ HUYỀN THOẠI
Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ lão thành cách mạng Cù Huy Cận sáng 30/5. Tới dự có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Tạ Quang Đông cùng nhiều vị lãnh đạo.
Cù Huy Cận sinh ngày 31/5/1919 trong gia đình nhà nho nghèo, ở làng Ân Phú, Hương Sơn, Hã Tĩnh. Ông theo học trung học ở Huế, đậu tú tài Pháp rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Huy Cận sớm giác ngộ cách mạng. Từ năm 1942 Huy Cận tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào năm 1945, được bầu và Ủy ban Giải phóng (Chính phủ lâm thời).
GS. Hà Minh Đức nhận định Huy Cận là một trong những nhà thơ gắn liền với huyền thoại. Sau cách mạng, Huy Cận là một trong những nhà thơ gánh nhiều trọng trách. Cách mạng tháng Tám thành công, ông là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ lâm thời (cùng Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu) vào Huế tiếp nhận lễ thoái vị của vua Bảo Đại. Huy Cận nhận chức Bộ trưởng Bộ Canh nông khi mới 28 tuổi, sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.
Huy Cận cũng là một nhà thơ được ở gần Bác Hồ, được kết nạp và tôn vinh là Viện sĩ Viện thơ thế giới, từng là Đại biểu quốc hội ba khóa. Huy Cận nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đợt 1 năm 1996. Năm 2005 ông được truy tặng Huân chương Sao vàng-phần thưởng cao nhất ghi nhận đóng góp cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước.
Là người đáp từ cuối cùng, con gái nhà thơ Huy Cận kể về những kỷ niệm đời thường của cha mình. Đó là những lần những người lạ không hề quen biết từ miền Trung ra Hà Nội chữa bệnh đến gặp xin Huy Cận giúp đỡ, đơn giản vì họ chỉ biết đến nhà thơ mà không quen ai khác. “Với khả năng của mình cha tôi không từ chối một ai. Ông thường nói về họ: Thật tội nghiệp quá”, Cù Lệ Duyên nói. Sau này với những ngày cuối đời của Huy Cận, con gái ông vẫn nhớ lời cha: “Không được khóc, phải ngẩng đầu lên xem ai đến tiễn đưa cha mình để còn cám ơn”.
LỬA CÒN THIÊNG
Nhiều nhà phê bình nhất trí gọi Huy Cận là Kiện tướng Thơ Mới. Danh xưng này dựa vào các sáng tác sớm và thành công trong Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942). GS. Phong Lê dẫn lại đánh giá của Hoài Thanh (Thi nhân Việt Nam) để định công cho Huy Cận: “một trong không hơn 5 người có công đầu định hình gương mặt Thơ mới, cũng là thơ Việt nói chung, ở đỉnh cao và kết thúc của nó”.
Cách đây một năm Hữu Thỉnh có nhiều đúc kết, nhận định rất hay về Nguyễn Bính dịp kỷ niệm 100 năm sinh, thế mà đối với Huy Cận ông ít có nhận xét sắc sảo vốn có. Dù vậy Hữu Thỉnh vẫn chỉ ra giá trị của Lửa thiêng: “Hồn dân tộc trong Lửa thiêng rạo rực, đằm thắm, tha thiết bao nhiêu ở trong điệu cảm, trong cảnh vật, trong ngôn ngữ. Chúng ta gọi Huy Cận là một nhà thơ lớn là ở cái công nuôi dưỡng và truyền lại cho chúng ta chất Việt sâu thẳm đó”.
Nhà phê bình Lê Thành Nghị đồng quan điểm khi đi sâu phân tích hồn quê, hồn dân tộc trong thơ Nguyễn Bính và Huy Cận. Ông đem Nguyễn Bính ra so sánh với Huy Cận để thấy một Nguyễn Bính lo âu với chân quê, hồn quê bị mai một, còn “Huy Cận hướng đến những cảm hoài bao la về nhân thế và vũ trụ, là linh hồn của nỗi buồn trời đất với tâm trạng ngậm ngùi tiền kiếp… Thơ Huy Cận trong Lửa thiêng vượt qua lối giãi bày kể lể của cá nhân trước những khát khao trần thế, để sang địa hạt của những linh cảm, cõi hư vô của tâm thức…”.
Trong số gần chục tham luận về Huy Cận, Vũ Quần Phương như thường lệ đưa lại những nhìn nhận tổng quan, sâu sắc về sự nghiệp thơ. Ông cho rằng ngay từ Lửa thiêng xuất bản năm ông 21 tuổi, Huy Cận lập tức được giới yêu thơ nhất trí tôn vinh ông là một tài năng lớn. Sự nhất trí sớm này không có ở Xuân Diệu, Chế Lan Viên hay Hàn Mặc Tử.
“Huy Cận tìm lại mình” là tựa đề bài viết của Vũ Quần Phương, ở đó có lúc ông thẳng thắn nhận xét: Sau thành tựu Thơ Mới, Huy Cận cũng như nhiều Kiện tướng Thơ mới khá lúng túng trong thay đổi nội dung và bút pháp để rồi “hăng hái viết nhưng chất lượng thơ xuống quá. Thấy nhiệt tình, thực tế nhưng ít thấy xúc động”. Mấy bài lục bát hơi hướng ca dao ghi chép sinh hoạt hàng ngày như Quanh nơi làm việc với những câu thơ “khó có thể tin rằng tác giả của những câu lục bát này lại là người từng viết Lửa thiêng-cũng lục bát mà nỗi niềm chất chứa trong từng chữ, quánh đặc, u ẩn, trĩu nặng cả không gian trong Chiều xưa: Đồn xa quằn quại bóng cờ/Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về/Ngàn năm sực tỉnh lê thê/Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu”.
Từ khi tham gia cách mạng, Huy Cận viết ít hơn, sau này theo giải thích của chính Huy Cận, đó là “bản lĩnh im lặng”. “Đọc lại cả đời thơ của lứa nhà thơ xuất hiện từ phong trào Thơ Mới ấy, Huy Cận là nhà thơ có ít nhất những bài thơ non lép trong chặng “nhận đường” và “lột xác”-hai khái niệm của giới văn nghệ đầu kháng chiến chống Pháp.
Lần theo cả sự nghiệp sáng tác, Vũ Quần Phương chỉ ra thời điểm Huy Cận lấy lại cảm hứng hay nói cách khác “thơ về với Huy Cận từ chuyến đi thâm nhập thực tế đời sống công nhân vùng mỏ than Hòn Gai, Cẩm Phả đầu năm 1958”. Trời mỗi ngày lại sáng in cuối năm này ghi dấu cho bước chuyển thắng lợi của Huy Cận. “Đến Đoàn thuyền đánh cá bạn đọc yêu thơ Huy Cận nhận diện được ngay hồn vía của tác giả Lửa thiêng lồng trong một Huy Cận cởi mở, tươi vui, hồn hậu: Thuyền ta lái gió với buồm trăng/Lướt giữa mây cao với biển bằng”.
Theo Nguyên Khánh - TP
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.