100 năm ngày sinh Huy Cận: Lửa còn thiêng

14:53 31/05/2019

Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.

Nhà thơ Huy Cận-người mang nỗi sầu thế kỷ

NHÀ THƠ HUYỀN THOẠI

Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ lão thành cách mạng Cù Huy Cận sáng 30/5. Tới dự có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Tạ Quang Đông cùng nhiều vị lãnh đạo.

Cù Huy Cận sinh ngày 31/5/1919 trong gia đình nhà nho nghèo, ở làng Ân Phú, Hương Sơn, Hã Tĩnh. Ông theo học trung học ở Huế, đậu tú tài Pháp rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Huy Cận sớm giác ngộ cách mạng. Từ năm 1942 Huy Cận tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào năm 1945, được bầu và Ủy ban Giải phóng (Chính phủ lâm thời).

GS. Hà Minh Đức nhận định Huy Cận là một trong những nhà thơ gắn liền với huyền thoại. Sau cách mạng, Huy Cận là một trong những nhà thơ gánh nhiều trọng trách. Cách mạng tháng Tám thành công, ông là một trong ba thành viên của phái đoàn Chính phủ lâm thời (cùng Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu) vào Huế tiếp nhận lễ thoái vị của vua Bảo Đại. Huy Cận nhận chức Bộ trưởng Bộ Canh nông khi mới 28 tuổi, sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng.

Huy Cận cũng là một nhà thơ được ở gần Bác Hồ, được kết nạp và tôn vinh là Viện sĩ Viện thơ thế giới, từng là Đại biểu quốc hội ba khóa. Huy Cận nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đợt 1 năm 1996. Năm 2005 ông được truy tặng Huân chương Sao vàng-phần thưởng cao nhất ghi nhận đóng góp cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và dựng xây đất nước.

Là người đáp từ cuối cùng, con gái nhà thơ Huy Cận kể về những kỷ niệm đời thường của cha mình. Đó là những lần những người lạ không hề quen biết từ miền Trung ra Hà Nội chữa bệnh đến gặp xin Huy Cận giúp đỡ, đơn giản vì họ chỉ biết đến nhà thơ mà không quen ai khác. “Với khả năng của mình cha tôi không từ chối một ai. Ông thường nói về họ: Thật tội nghiệp quá”, Cù Lệ Duyên nói. Sau này với những ngày cuối đời của Huy Cận, con gái ông vẫn nhớ lời cha: “Không được khóc, phải ngẩng đầu lên xem ai đến tiễn đưa cha mình để còn cám ơn”.

100 năm ngày sinh Huy Cận: Lửa còn thiêng - ảnh 2

Buổi hội thảo lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Cù Huy Cận Ảnh: MINH CHÂU

LỬA CÒN THIÊNG

Nhiều nhà phê bình nhất trí gọi Huy Cận là Kiện tướng Thơ Mới. Danh xưng này dựa vào các sáng tác sớm và thành công trong Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942). GS. Phong Lê dẫn lại đánh giá của Hoài Thanh (Thi nhân Việt Nam) để định công cho Huy Cận: “một trong không hơn 5 người có công đầu định hình gương mặt Thơ mới, cũng là thơ Việt nói chung, ở đỉnh cao và kết thúc của nó”.

Ông Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam đánh giá: “Nhắc Huy Cận người ta không quên nhớ đến Lửa thiêng. Nhớ Lửa thiêng ai cũng bảo đó là thế giới của nỗi buồn. Với nỗi buồn ấy Huy Cận đã đưa Thơ Mới lên đỉnh cao và kết thúc trên cái đỉnh cao đó. Từ Hoài Thanh cho đến hôm nay, nhận định đó được coi như chúng khẩu đồng từ. Huy Cận xác nhận điều đó trong bài Mai sauChàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm/Gió trăng ơi! nay còn nhớ người chăng/Hơn một lần chàng đã gửi cho trăng/Nỗi hưu quạnh của hồn buồn không cớ”.

Cách đây một năm Hữu Thỉnh có nhiều đúc kết, nhận định rất hay về Nguyễn Bính dịp kỷ niệm 100 năm sinh, thế mà đối với Huy Cận ông ít có nhận xét sắc sảo vốn có. Dù vậy Hữu Thỉnh vẫn chỉ ra giá trị của Lửa thiêng: “Hồn dân tộc trong Lửa thiêng rạo rực, đằm thắm, tha thiết bao nhiêu ở trong điệu cảm, trong cảnh vật, trong ngôn ngữ. Chúng ta gọi Huy Cận là một nhà thơ lớn là ở cái công nuôi dưỡng và truyền lại cho chúng ta chất Việt sâu thẳm đó”.

Nhà phê bình Lê Thành Nghị đồng quan điểm khi đi sâu phân tích hồn quê, hồn dân tộc trong thơ Nguyễn Bính và Huy Cận. Ông đem Nguyễn Bính ra so sánh với Huy Cận để thấy một Nguyễn Bính lo âu với chân quê, hồn quê bị mai một, còn “Huy Cận hướng đến những cảm hoài bao la về nhân thế và vũ trụ, là linh hồn của nỗi buồn trời đất với tâm trạng ngậm ngùi tiền kiếp… Thơ Huy Cận trong Lửa thiêng vượt qua lối giãi bày kể lể của cá nhân trước những khát khao trần thế, để sang địa hạt của những linh cảm, cõi hư vô của tâm thức…”.

Trong số gần chục tham luận về Huy Cận, Vũ Quần Phương như thường lệ đưa lại những nhìn nhận tổng quan, sâu sắc về sự nghiệp thơ. Ông cho rằng ngay từ Lửa thiêng xuất bản năm ông 21 tuổi, Huy Cận lập tức được giới yêu thơ nhất trí tôn vinh ông là một tài năng lớn. Sự nhất trí sớm này không có ở Xuân Diệu, Chế Lan Viên hay Hàn Mặc Tử.

“Huy Cận tìm lại mình” là tựa đề bài viết của Vũ Quần Phương, ở đó có lúc ông thẳng thắn nhận xét: Sau thành tựu Thơ Mới, Huy Cận cũng như nhiều Kiện tướng Thơ mới khá lúng túng trong thay đổi nội dung và bút pháp để rồi “hăng hái viết nhưng chất lượng thơ xuống quá. Thấy nhiệt tình, thực tế nhưng ít thấy xúc động”. Mấy bài lục bát hơi hướng ca dao ghi chép sinh hoạt hàng ngày như Quanh nơi làm việc với những câu thơ “khó có thể tin rằng tác giả của những câu lục bát này lại là người từng viết Lửa thiêng-cũng lục bát mà nỗi niềm chất chứa trong từng chữ, quánh đặc, u ẩn, trĩu nặng cả không gian trong Chiều xưaĐồn xa quằn quại bóng cờ/Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về/Ngàn năm sực tỉnh lê thê/Trên thành son nhạt chiều tê cúi đầu”.

Từ khi tham gia cách mạng, Huy Cận viết ít hơn, sau này theo giải thích của chính Huy Cận, đó là “bản lĩnh im lặng”. “Đọc lại cả đời thơ của lứa nhà thơ xuất hiện từ phong trào Thơ Mới ấy, Huy Cận là nhà thơ có ít nhất những bài thơ non lép trong chặng “nhận đường” và “lột xác”-hai khái niệm của giới văn nghệ đầu kháng chiến chống Pháp.

Lần theo cả sự nghiệp sáng tác, Vũ Quần Phương chỉ ra thời điểm Huy Cận lấy lại cảm hứng hay nói cách khác “thơ về với Huy Cận từ chuyến đi thâm nhập thực tế đời sống công nhân vùng mỏ than Hòn Gai, Cẩm Phả đầu năm 1958”. Trời mỗi ngày lại sáng in cuối năm này ghi dấu cho bước chuyển thắng lợi của Huy Cận. “Đến Đoàn thuyền đánh cá bạn đọc yêu thơ Huy Cận nhận diện được ngay hồn vía của tác giả Lửa thiêng lồng trong một Huy Cận cởi mở, tươi vui, hồn hậu: Thuyền ta lái gió với buồm trăng/Lướt giữa mây cao với biển bằng”.

Theo Nguyên Khánh - TP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao?

  • Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.

  • Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.

  • Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.

  • Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.

  • Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.

  • Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.

  • Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạcDưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.

  • NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam

  • “Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.

  • Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.

  • Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.

  • Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.

  • Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.

  • Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.

  • “ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.

  • Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.

  • Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.

  • Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.

  • Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.