Zippo

09:52 23/08/2011
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Ông nổi tiếng với các truyện Âm mưu, Ma thuật nụ cười, Stanley… vào giai đoạn 1996 - 2006. Từ năm 2008 đến nay, ông liên tục cho ra mắt các truyện ngắn chất lượng như: Chân dung nghệ sĩ, Tấm card,  Đền thờ…. James Ross quan niệm “viết là làm cho thế giới đi theo con đường lẽ phải”.



JAMES ROSS


Zippo

Truyện ngắn


John kể rằng: “Tôi đã mơ thấy mình đứng trong quán bar nói chuyện và uống bia với vài người bạn. Đó là một tối thứ sáu, quán khá đông và tiếng nhạc xập xình. Bia khiến tôi lâng lâng dễ chịu, tất nhiên tôi chưa say, vẫn rung cảm để có thể nhận thấy tất cả các cô gái trong quán đều xinh tươi và hấp dẫn. Tôi đủ tiền trong ví để tiếp tục cuộc chơi. Anh thấy đấy, tất cả thật tuyệt!”

Cậu ấy tì vào cửa, hít một hơi dài rồi tiếp tục câu chuyện.

“Tôi đã làm một vòng trước khi tạt vào quán bar, quán đông nhưng tôi được phục vụ ngay tức thì. Khi tôi đi ngang qua các loại thức uống và trở lại để lấy cốc bia uống dở, bỗng tôi chạm nhẹ phải một cô gái, tất nhiên cô gái đó cũng chạm nhẹ vào tôi. Cô ấy mỉm cười. Và còn liếc mắt đưa tình nữa chứ. Tôi tự nhủ “Mình sẽ có một đêm tuyệt vời rồi đây”. Nếu bình minh trở dậy, tôi ắt sẽ mỉm cười đắc ý. Anh biết giấc mơ là thế nào rồi đấy, dù anh thừa biết những giấc mơ đẹp là không hề có thật, nhưng anh cứ cầu mong mình may mắn để không phải thức dậy đột ngột, mà cứ chìm đắm trong mơ. Mọi thứ thật tuyệt vời phải không?”

“Rồi một đứa trẻ tiến vào quán bar, thoạt đầu tôi không trông thấy nó, nhưng giấc mơ cho biết là tôi đã thấy hoặc là tôi chợt nhớ ra nó ngay sau đó. Thằng bé gầy nhom, gầy quắt, được bọc bởi một vẻ ngoài trông đằng đằng sát khí. Nó mang theo một thùng đầy xăng, phát ra âm thanh ọc ạch khi băng qua đám đông”.

“Tôi ngước lên định nhìn thằng bé đang đứng trước mặt. Đúng lúc đó nó bất thình lình xối thẳng thùng xăng vào mặt tôi. Tôi đứng giữa đám đông đang quay mặt đi vì một cảnh tượng lố bịch, ngoại trừ thằng bé đang toét miệng cười tôi. Người ướt đẫm xăng, mắt tôi cay xè khi xăng chảy xuống mặt. Xăng đóng thành váng trong cốc bia của tôi.

John nhìn tôi và cười, một nụ cười nhăn nhó đến thảm hại.

“Tôi đứng đó, một mình, giữa vũng chất lỏng bén lửa đó. Xăng thấm qua áo quần. Sền sệt. Ẩm ướt. Lạnh. Tôi biết điều gì đang xảy ra và tự hỏi chính mình. Tại sao lại là tôi? Tôi đã làm gì nên tội mà bị đối xử như thế này? Bị thiêu sống trong quán bar vào một đêm thứ sáu là chuyện không hề có trong kế hoạch của tôi”.

Thằng bé thò tay vào túi và lấy ra cái bật lửa, rồi giữ nó ngay trước mặt tôi mà cười toe toét. Tôi để ý thấy răng nó trắng và rất đều đặn. Tôi lại nghĩ về mình. Tôi đã không có thì giờ để nghĩ về điều này, không được chuẩn bị trước. Tôi chưa sẵn sàng”.

“Tôi đợi được nhìn thấy cuộc đời tôi bốc cháy ngay trước mắt mình khi thằng bé bật nắp cái bật lửa. Nhưng nó không xoẹt lửa. Thằng bé bật lên một lần nữa. Nó vẫn không phát ánh lửa nào. Thằng bé nói với tôi, giọng điệu như thể đang xin lỗi. “Hãy giữ chặt, Rufus, nó sẽ hoạt động trong giây lát”. Thắng bé căng óc tập trung làm theo chỉ dẫn.

“Sau đó tôi tỉnh giấc. Quần đùi ướt đẫm, bầy nhầy. Chưa bao giờ tôi hoảng sợ đến thế”.

John lùi lại, mở lỗ thông khí. “Tôi đã mơ như thế bốn lần”. Cậu quay lại và tiếp tục tựa vào cửa xe, nhổ nước bọt qua lớp không khí ẩm ướt trong lành.

“Hai lần đầu tiên là cú sốc cho hệ thần kinh của tôi. Nó làm tôi rối loạn và không thể nào ngủ được trong nhiều ngày sau đó. Khi mơ đến lần thứ ba với cái kiểu như thế, tôi không ngủ được như những ngày trước đó. Tôi đã sẵn sằng đợi nó đến. Rất sẵn sàng. Tôi thoát ra khỏi giấc mơ trước khi thằng bé kịp thò tay vào túi.”

“Lần thứ tư mơ thấy giấc mơ đó, tôi gần như quên hết mọi thứ. Bởi vì đó là lần cuối cùng nên nó kéo dài khá lâu. “Như anh đã biết đấy, tôi đứng đó, trong quán bar, khá vui vẻ với vài người bạn, một cô gái lướt qua chạm nhẹ vào tôi. Cô ấy mặc áo mỏng tang mà lại không mặc áo ngực. Tôi cảm nhận được khối tròn đầy đặn ấy chạm vào cánh tay tôi, nhũ hoa cô cứng lại mặc dù trong quán bar khá ấm. Cô ấy nhìn tôi và mỉm cười, một nụ cười ấm áp, niềm nở và gợi tình. Ôi!  Dễ chịu và hưng phấn. Anh biết đấy, tôi chưa bao giờ gặp một cô gái hấp dẫn mà tôi không thể không rung động, nhưng lần này tôi thấy rạo rực tim gan ngay lập tức. Tôi có thể có một đêm ngọt ngào.

“Nhưng đứa trẻ vẫn chưa bị kí ức xóa nhòa, nó tiến lại từ phía đằng sau. Tôi hốt hoảng quay lại, và thùng xăng, dĩ nhiên, không thương tiếc đổ tràn xuống tóc tôi.

Cô gái không còn ở đó nữa.

Tôi nói với John “Có lẽ cô ấy biết âm mưu đó”, “Cô ấy là một phần của kế hoạch ma mị nào chăng?”. Nhưng cậu ấy đã lờ đi.

“Tôi có thể cảm nhận được xăng ngấm vào áo phông và quần jean của mình. Nó chảy thấm xuống quần lót, chảy theo các nếp da nhăn ở vùng mông rồi đọng lại sền sệt phía sau. Đúng lúc đó cái bật lửa lóe sáng, ắt hẵn thằng bé đã sửa được nó hay ít ra thì nó mua được một cái mới, tốt hơn. Bàn tay thằng bé di chuyển về phía trước mặt tôi như một con rắn lửa dài. Cái cỗ máy bé nhỏ hình miệng rắn đó há họng trong tay nó. Ngọn lửa… rõ ràng là một ngọn lửa xanh trong miệng một con rắn độc. Ngọn lửa màu xanh nho nhỏ đang sẵn sàng nhảy xổ ra, dạo chơi trên vũng xăng như một đứa trẻ thích thú nghịch dại trên đống đồ chơi ướt át, đầy sự hủy diệt của nó.

“Ngay khi tỉnh giấc tôi nghe thấy tiếng “Oẹ” rõ to. Đó có thể là do tiếng tim tôi đập mạnh, hoặc được phát ra từ dạ dày bởi tôi đã nôn ra một đống xuống sàn, ngay bên cạnh giường ngủ.”

“Hai lần đầu nằm mơ khiến tôi bực mình vì tôi không có sự chuẩn bị. Tôi ghét như thế, cảm giác như bị ai đó bắt quả tang. Nhưng lần cuối cùng nó xảy ra làm tôi nhận ra rằng mình sợ cái cảm giác bị lửa cháy đến chết, sợ chiếc hộp quẹt sẽ xẹt lửa sớm hơn hay muộn hơn lần trước và tôi không có đủ thời gian để kịp thoát ra.”

John dừng lại và suy ngẫm một lát.

Tôi hỏi: “Sau đó thế nào?”

“Sau đó, tôi không tỉnh dậy kịp”. Cậu ấy quay qua, nhìn vào tôi. “Làm sao mà lúc nào tôi cũng có thể tỉnh dậy kịp thời được cơ chứ?”

Trong một khoảnh khắc, tôi cảm nhận được những luồng xúc cảm đang dâng trào bên trong John nhưng chúng bị ngăn lại bởi đôi mắt màu nâu lục nhạt và nụ cười đờ đẫn che giấu sự sợ hãi được giấu kín rất cẩn thận.

“Đừng an ủi tôi vào lúc này.”

Không ai nói thêm một lời nào. Và chúng tôi chầm chậm bước ra khỏi xe.

CAO THỊ NGÂN dịch
(270/08-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.