Xuân tình như Nguyễn Trãi

15:22 13/02/2015

Mùa xuân chiếm một ví trí quan trọng trong thơ Nguyễn Trãi. Xuân hiện lên bằng nhiều vẻ dáng khác nhau, được khắc họa bằng nhiều cung bậc khác nhau. Mỗi một bài thơ xuân như là một trang nhật kí và cảm xúc của cuộc đời thi nhân.

Tranh "Trong vườn" của họa sỹ Lê Phổ

Hẳn thế! Có những mùa xuân tươi tắn trẻ trung đầy nhiệt huyết. Có những mùa xuân của tình cảm lứa đôi. Có những mùa xuân của hoài niệm và tiếc nuối. Cũng có những mùa xuân của trí tuệ và đạo học, của xông pha rồi xa lánh quan trường. Những chiều kích ấy trong thơ Nguyễn Trãi đan cài và hòa quyện với nhau để tạo nên vẻ đẹp đa chiều trong thơ ông. Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là những bài thơ tình, không chỉ là nói về tình yêu mùa xuân mà còn ca ngợi cái xuân tình trần gian của con người.

Cái xuân tình ấy trước tiên là về mùa xuân tuổi trẻ, luôn háo hức và tràn đầy nhựa sống:

Từ bén hơi xuân tốt lại thêm,

Đầy buồng lạ màu thâu đêm.

Tình thư một bức phong còn kín,

Gió nơi đâu gượng mở xem. 

(Cây chuối) 1 

Bài thơ này chứa đựng những mã khóa đầy ẩn ý về yêu đương. Nào là các chữ “bén hơi xuân” dường như đang nhắm đến sự “bén duyên”, “bén hơi bén tiếng”. “Hơi xuân” là hơi dương (dương khí), là năng lượng của cuộc sống. Bản thân chữ “xuân” vốn cũng có nghĩa trỏ “chuyện ấy” của gái trai2 (trường phái tranh tính dục của Nhật Bản cũng được gọi là “xuân họa” - Shunga). Nào là “buồng lạ” không hẳn chỉ để trỏ “buồng chuối” mà còn trỏ chốn “buồng riêng đôi lứa”. Cái màu đêm đen vốn chẳng mấy ai ưa lại là kẻ đồng minh cho những người đang yêu. Chợt nhớ đến câu thơ “con cò mấp máy suốt đêm thâu” trong thơ Hồ Xuân Hương với “mỹ cảm phồn thực”. Lại nhớ đến cái đa tình, lơi lả trong câu thơ “người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ, màu Thích Ca nào thuở hữu tình” của nàng Điểm Bích khi “vào vai Thị Màu” để thử lòng ngài Huyền Quang.

Mặt khác, cây chuối cũng đã là một biểu tượng đa nghĩa trong văn hóa cổ phương Đông. Bài Vị triển ba tiêu của Tiền Hủ đời Đường tả đọt lá chuối chưa mở, hàm ý cái lòng xuân trinh trắng của người thiếu nữ đang e ấp chờ gió xuân lật giở. Còn trong văn hóa Việt Nam, cây chuối còn là biểu tượng của sinh dục và phát triển. Chuối nảy buồng ra nải, một bi mà nhiều quả, một gốc mà nhiều cây, nó là hình tượng sống động cho sự sinh nở phong nhiêu, đông con nhiều cháu. Lá chuối còn trỏ cái sinh thực khí của phụ nữ nữa. Lá vông, lá khế,… lá nào thì cũng vậy! Thế nhưng, những tầng hàm nghĩa ấy lại được Nguyễn Trãi thể hiện bằng những ngôn ngữ ẩn ước: bức tình thư đang phong kín chờ đợi gió xuân đến lật mở.

Biết rằng mùa xuân của đất trời là vô tận, còn đời người thì hữu hạn, tuổi thanh xuân chỉ là một điểm chấm nhỏ nhoi trên dòng chảy bất tận của thời gian. Cho nên, con người dường như đang tận dụng từng giây từng phút:

Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm,

Những lệ xuân qua tuổi tác thêm.

Cực thấy ngoài hiên tơ liễu rủ,

Một phen liễu rủ một phen mềm.

(Tích cảnh thi 7)

Tiếc xuân nên mới cuống cuồng thưởng xuân, sợ (lệ) tuổi trẻ ngắn ngủi nên mới miệt mài tận sống. Các chữ “cầm đuốc chơi đêm” vốn dịch từ cụm bỉnh chúc dạ du 秉燭夜遊,  từ điển Từ nguyên chú nghĩa là: cập thời hành lạc (gặp thời vui chơi)3. Cổ thi thập cửu thủ đời Hán có đoạn: “Sống chẳng qua trăm tuổi, thường ôm lo ngàn đời. Ngày ngắn đêm dài thế, sao chẳng cầm đuốc chơi?”. Mà đã chơi đêm thì chơi thâu đến tận sáng. Đến lúc ngoảnh ra ngoài nhìn thì lại thấy một màu dương liễu xanh mướt. Liễu càng xanh càng mướt càng mềm, thì lại càng thấy xuân. Trong thi ca cổ phương Đông, liễu chẳng những là một tín hiệu của mùa xuân đất trời, mà còn là biểu trưng của tấm lòng của người con gái đối với tình lang: nhành liễu khi chia tay, tưởng đã thề nguyện sẽ mãi một lòng một dạ, vậy mà chẳng biết lại bị kẻ khác bẻ mất? Cho nên, đang xuân thì hãy cứ tận hưởng, đào liễu đang xanh đang tơ thì hãy cứ “bẻ cho người tình chung” (Nguyễn Du). Biết mai sau thế nào mà gìn với giữ trong khi thời gian cứ trôi đi như nước chảy về Đông:

Cướp thiếu niên đi, thương đến tuổi, 

Ốc dương hòa lại, ngõ dừng chân... 

Cầm đuốc chơi đêm, này khách nói, 

Tiếng chuông chưa dộng ắt còn xuân. 

(Vãn xuân)

Vẫn là cái cảm giác “giành giật cuộc sống”, một cuộc giành giật không cân sức giữa sinh mệnh cá thể và quy luật của tạo hóa. Bất lực nhìn thời gian chảy trôi, bất lực nhìn những mùa xuân trôi đi, bất lực thấy thời niên thiếu trẻ trai bị cướp đoạt. Giống như cái thảng thốt của Nguyễn Du hơn ba trăm năm sau: “cái nắng mùa hè, cái lạnh mùa đông đã cướp tuổi thanh xuân đi mất” (hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên). Nhà thơ thấy tóc bạc trên đầu, mà muốn gọi mùa xuân trở lại (Ốc dương hòa lại ngõ dừng chân).  

Tiếc xuân như thế, tiếc đời như thế, cho nên, có lúc Nguyễn Trãi còn “mong chiếm cả hết hòa xuân(Tự thán 11). Mà chẳng chỉ có mùa xuân đâu, đến lúc thu vàng rơi rụng vẫn còn “thèm chết bên hoa đôi chim trắng” (Tiễn sát hoa biên song bạch điểu - Vãn lập). Cái cảm xúc “thèm sống muốn chết đi được” quả là sự thể hiện tột cùng của ước muốn nhân sinh.

Những mùa xuân nhân sinh là những cảm xúc của một cá thể trước sự vận hành, chảy trôi của vũ trụ và đời người. Con người ai cũng thế, luôn có những cảm thức hiện sinh khi mình đang tồn tại và nhận thức về sinh mệnh của chính mình khi mỗi độ xuân về. Nguyễn Trãi lại càng thế. Ông đã sống hết mình với những sức xuân trong tâm hồn và trí tuệ. Điều đó làm nên chất xuân tình trong những câu chữ cổ kính mà tân kì trong thơ ông! 

Nguồn: Trần Trọng Dương - Tia Sáng

 

---------------------------------------------------------------

Chú thích:

1. Các bài thơ Nôm được dẫn trong Trần Trọng Dương. 2014. Nguyễn Trãi quốc âm từ điển. NXB Từ điển Bách khoa. Hà Nội.

2 谷衍奎 Cốc Diễn Khuê.《字源流字典 (Hán tự nguyên lưu tự điển). 语文出版社 Ngữ văn xuất bản xã.2010. P.773.

3 辭源》(Từ nguyên)。商務印書館 Thương Vụ ấn thư quán。上海 Thượng Hải.(1999).  P.2103.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.