Xưa rồi

15:03 01/12/2008
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

Ông Dương Việt Thắng - Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cà Mau trong phần trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ (số 79 ngày 8-4-2006) cho rằng: “Đúng là sáng tác văn học nghệ thuật được quyền hư cấu nhưng phải trên cơ sở sự thật. Nói quá thành bác Ba Phi rồi. Nói quá mà nói về cái tốt, nhân cách hoá sẽ có tính xây dựng. Theo tôi hư cấu như thế là tốt.” Xem ra người ta trả lời rất bài bản và kín kẽ nhưng lại quên mất đặc thù của nghệ thuật như lãnh tụ V.I.Lênin đã chỉ ra: “Nghệ thuật không đòi hỏi người ta phải thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực” (Bút ký triết học).
Gần đây ở ta đã dịch một số tác phẩm văn học nước ngoài được gọi là “động trời” như: Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Điên cuồng như Vệ Tuệ của Vệ Tuệ, Thiếu nữ đánh cờ vây của Sơn Táp, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của G.Mackét...

Độc giả thì vồ vập, giới phê bình thì không biết phê bình cái gì, còn nhà quản lý văn nghệ thì im lặng vì cho rằng đó là “chuyện của người ta”!
Văn học nghệ thuật góp phần quan trọng tạo nên cái “vốn xã hội”- một thứ vốn không thể tính lời lãi, thậm chí còn phải bù lỗ để cho cái vốn ấy phát triển. Sự đánh giá sản phẩm tinh thần là phải có thời gian, nghiệp vụ và cần nhất là công tâm. Người quản lý văn nghệ phải “liên tài”, phải biết “gạn đục khơi trong”, phải nâng niu những mầm, nụ sáng tạo. Độc giả bây giờ không như xưa, bây giờ họ thông minh nhưng khó tính, họ có thông tin và đặc biệt họ được “cởi trói” và thậm chí họ còn là... Thượng Đế! Chính vì thế mà nhiều người thích đọc cũng như nhiều người không thích đọc Nguyễn Ngọc Tư và Cánh đồng bất tận, thiết nghĩ là chuyện rất bình thường.

Nhân “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” tôi nhớ đến ý kiến của văn hào Lỗ Tấn: “Tôi nghĩ phải mời các nhà phê bình ăn táo nhũn (...). Quả táo này có mấy chỗ hỏng, nhưng có mấy chỗ chưa hỏng, còn có thể ăn được. Các nhà phê bình ác ý cho ngựa phóng trên đám mạ non, tất nhiên như thế là khoái lắm, nhưng đám mạ non kia bị thiệt hại. Những cây mạ bình thường cũng như những cây mạ thiên tài. Non nớt đối với già dặn cũng như trẻ con đối với người già, chẳng có gì là nhục hết. Tác phẩm cũng thế, mới đầu thì non nớt, không cho là nhục được. Bởi vì nếu không bị vùi dập, thì sẽ lớn lên thành thục, già dặn. Chỉ có suy yếu, hủ bại, thì mới không có thuốc chữa mà thôi”. (Dẫn theo Phương Lựu: Lỗ Tấn- Nhà lý luận văn học- Nxb Đại học và THCN- H.1977, trang 341, 346).

Bậc tiền bối nói vậy không đáng để ta suy nghĩ trong hành xử với văn chương ư? Phê bình quy chụp, xã hội học dung tục nhằm “xoá sổ” đối tượng là “Xưa rồi,”.
 Hà Nội, 4-2006
  B.V.T

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.