NGUYỄN QUANG HÀ
Vợ một người bạn làm thơ của chúng tôi, trong bữa anh em tụ tập ở nhà chị "lai rai" với nhau, chị cũng góp chuyện, vui vẻ và rất thật thà.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà- Ảnh: internet
Chị nói: "Em thấy các anh toàn những người có học cả, lại rất đứng đắn nữa chứ, vậy mà không hiểu tại sao các anh lại thích làm thơ nhỉ?"!
Dĩ nhiên cũng có những người nghĩ về thơ như thế.
Với tôi, tôi cho rằng thơ là thiên tài. Có người thiên tài suốt đời. Có người thiên tài một đêm. Cũng có người chỉ được làm thiên tài trong tích tắc. Tất cả họ, dù một câu thơ hay hàng tập thơ để lại cho đời đều trở thành tài sản vô giá.
Xúc động biết bao khi Chế Lan Viên viết:
"Ở xứ một ngàn năm chiến tranh, vạn ngày trận mạc
Để yên lòng người thì con chim hát
Cho kẻ ra đi, cho kẻ đợi chờ"
Ngây ngất biết bao dù chỉ một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
"Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em"
Và cám ơn Thanh Thảo, anh đã giúp cho tuổi trẻ nhận chân ra cái đích thực của họ:
"Lũ thanh niên chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
Không dựa dẫm những hào quang có sẵn"…
Tôi nhớ có lần anh Nguyễn Xuân Sanh kể với lớp trẻ chúng tôi rằng: khi những bài thơ đầu tiên của anh được đăng báo, anh sung sướng thiếu phát cuồng lên nữa. Khi tòa báo mời anh đến tòa soạn, đưa trả tiền nhuận bút cho anh thì anh run người và suýt bật khóc, vì nghĩ rằng sao việc làm của mình thiêng liêng thế mà người ta nỡ lấy đồng tiền để đánh giá nó nhỉ?
Các cụ ta ngày xưa, trước mỗi buổi bình thơ, đều đốt hương trầm lên, trang nghiêm vậy thay. Cái việc các nhà thơ nhảy sang văn xuôi, viết tiểu thuyết ào ào, còn các nhà văn không thấy ai dám đổi chiều như thế, mới thấy thơ thật khó.
Chỉ có điều, e nàng thơ đẹp quá, lại sống giữa lụy tục nên cứ bị chọc ghẹo dài dài.
Có bạn trẻ đầy ảo tưởng, mới được in bài thơ đầu tiên liền bỏ nhiệm sở, xin cắt lương và tuyên bố rằng mình sẽ sống bằng nghề làm thơ.
Có người quen trận mạc, trở nên có tiếng tăm, bỗng nổi máu sính văn chương, chấm bút, làm thơ, được mấy anh cơ hội tấm tắc khen, tưởng là thật, đòi đăng báo và đến hội nghị nào cũng đọc tùm lum.
Cũng có kẻ nhờ có tiền mà được đăng thơ, rồi vỗ ngực bồm bộp tự xưng ta là nghệ sỹ.
Chưa bao giờ tòa soạn các tờ báo lại nhận được nhiều bản thảo thơ gởi đến như bây giờ. Biên tập đọc thơ hàng cân giấy. Thật đáng đề phòng...
E chừng nàng thơ tả tơi có lúc.
Nhưng tệ nhất có lẽ là các nhà phê bình thơ không hiểu vì lý do gì lại cất lời ca những loại thơ giả kia?
Điều không thể tha thứ được là có những nhà thơ đích thực lại tự buông thả mình. Hoặc là quá dễ dãi về câu chữ! Hoặc là học thói uốn éo trong thơ. Hoặc là mới nhặt nhạnh được chỗ này chỗ kia một dúm kiến thức, chưa kịp chín đã vội tung vào thơ để lòe đời.
Không nói xa xôi làm gì. Tôi xin nói cái hiện tại. Bằng chứng là một tờ văn nghệ số đầu năm 1987 bưu điện vừa đưa đến cho tôi đây.
Tôi liền giở tờ báo ra đọc. Như người biết uống rượu, ngồi vào bàn tiệc, đầu tiên là uống một ngụm rượu suông, lắng mình lại, thưởng thức hương thơm của rượu lan tỏa khắp khứu giác mình rồi lắng nghe chất men lách rất nhẹ nhàng vào từng tế bào, rạo rực; mở báo văn nghệ ra, cái tật của tôi là đọc nghiến ngấu một mạch cho hết các bài thơ đã, rồi sau đó mới đến đọc các câu khác.
Ngay trang 5, tôi đã đọc những câu này:
"Thành phố lúc bình minh
Những ngôi nhà Quang Trung người thức dậy đi làm
Tiếng cơm sôi lốc bốc từng thang gác"
Ở trang 12 in 6 bài thơ đóng trong khung đỏ rực. Mỗi đề bài cũng in mực đỏ. Tôi chọn một bài có cái đề giản dị để đọc.
Ba câu mở đầu thế này:
"Em có cùng anh về bến Then
đi dưới trời xuân mưa buông rèm
êm êm cỏ hát ru trời biếc"
Tôi cố đọc thêm một khổ thơ nữa:
"Chim nói điều chi cứ lượn vòng
Từng đôi cánh tín hiệu trên không
Cho anh căng hết ăng-ten-cảm
giữa bến sông này nhớ phố đông"
Tôi không đọc thêm được nữa và buông báo, không cảm nhận được rõ ràng là miệng mình đắng hay là rượu bị pha. Quả tang ba bận như thế, đúng là rượu giả, không còn uống tiếp được nữa. Các tác giả ở đây đúng là không làm thơ mà đang đùa với thơ.
Không biết sự đùa này còn kéo dài đến bao giờ.
Thời thơ ngước mắt nhìn lên trăng sao để ca ngợi qua rồi. Thời thơ cúi đầu nhìn xuống để cảm thông cũng qua rồi. Thời bây giờ các nhà thơ là chiến sỹ, là những người cần lao. Mình phải cất lên chính tiếng nói của nhân dân mình, bởi vì mình chính là nhân dân mà. Ý nghĩa và trách nhiệm đó càng thiêng liêng biết bao.
Tôi xuất thân từ người lính, nên đọc những câu này của Hoàng Nhuận Cầm:
"Đêm trong suốt áp ngực vào phương ấy
Gặp lại mùi cỏ cháy suốt thời trai
Ngôi sao rơi trên dãy kẽm gai dài
Cái vùng đất không tiếng gà cất gáy"…
Mà cứ thấy nao lòng, mà cứ muốn sống tiếp một cuộc đời thật đẹp.
Nên trên diễn đàn thơ này, tôi chỉ xin nói một câu bật ra từ gan ruột mình "XIN ĐỪNG ĐÙA VỚI THƠ".
Tôi rất muốn được ghép hai câu thơ của Hồ Xuân Hương làm tấm biển treo trước cửa phòng của nàng thơ, để nhắc nhở những ai thích đùa cợt, chọc ghẹo nàng:
"Này này chị bảo cho mà biết
Muốn sống đem vôi quét trả đền"
N.Q.H
(SH24/4-87)
Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.
(Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?
“Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.
Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.
(Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng