Xin đừng đùa với thơ

15:38 05/11/2012

NGUYỄN QUANG HÀ

Vợ một người bạn làm thơ của chúng tôi, trong bữa anh em tụ tập ở nhà chị "lai rai" với nhau, chị cũng góp chuyện, vui vẻ và rất thật thà.

Nhà văn Nguyễn Quang Hà- Ảnh: internet

Chị nói: "Em thấy các anh toàn những người có học cả, lại rất đứng đắn nữa chứ, vậy mà không hiểu tại sao các anh lại thích làm thơ nhỉ?"!

Dĩ nhiên cũng có những người nghĩ về thơ như thế.

Với tôi, tôi cho rằng thơ là thiên tài. Có người thiên tài suốt đời. Có người thiên tài một đêm. Cũng có người chỉ được làm thiên tài trong tích tắc. Tất cả họ, dù một câu thơ hay hàng tập thơ để lại cho đời đều trở thành tài sản vô giá.

Xúc động biết bao khi Chế Lan Viên viết:

"Ở xứ một ngàn năm chiến tranh, vạn ngày trận mạc
Để yên lòng người thì con chim hát
Cho kẻ ra đi, cho kẻ đợi chờ"

Ngây ngất biết bao dù chỉ một câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

"Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em"

Và cám ơn Thanh Thảo, anh đã giúp cho tuổi trẻ nhận chân ra cái đích thực của họ:

"Lũ thanh niên chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
Không dựa dẫm những hào quang có sẵn"…

Tôi nhớ có lần anh Nguyễn Xuân Sanh kể với lớp trẻ chúng tôi rằng: khi những bài thơ đầu tiên của anh được đăng báo, anh sung sướng thiếu phát cuồng lên nữa. Khi tòa báo mời anh đến tòa soạn, đưa trả tiền nhuận bút cho anh thì anh run người và suýt bật khóc, vì nghĩ rằng sao việc làm của mình thiêng liêng thế mà người ta nỡ lấy đồng tiền để đánh giá nó nhỉ?

Các cụ ta ngày xưa, trước mỗi buổi bình thơ, đều đốt hương trầm lên, trang nghiêm vậy thay. Cái việc các nhà thơ nhảy sang văn xuôi, viết tiểu thuyết ào ào, còn các nhà văn không thấy ai dám đổi chiều như thế, mới thấy thơ thật khó.

Chỉ có điều, e nàng thơ đẹp quá, lại sống giữa lụy tục nên cứ bị chọc ghẹo dài dài.

Có bạn trẻ đầy ảo tưởng, mới được in bài thơ đầu tiên liền bỏ nhiệm sở, xin cắt lương và tuyên bố rằng mình sẽ sống bằng nghề làm thơ.

Có người quen trận mạc, trở nên có tiếng tăm, bỗng nổi máu sính văn chương, chấm bút, làm thơ, được mấy anh cơ hội tấm tắc khen, tưởng là thật, đòi đăng báo và đến hội nghị nào cũng đọc tùm lum.

Cũng có kẻ nhờ có tiền mà được đăng thơ, rồi vỗ ngực bồm bộp tự xưng ta là nghệ sỹ.

Chưa bao giờ tòa soạn các tờ báo lại nhận được nhiều bản thảo thơ gởi đến như bây giờ. Biên tập đọc thơ hàng cân giấy. Thật đáng đề phòng...

E chừng nàng thơ tả tơi có lúc.

Nhưng tệ nhất có lẽ là các nhà phê bình thơ không hiểu vì lý do gì lại cất lời ca những loại thơ giả kia?

Điều không thể tha thứ được là có những nhà thơ đích thực lại tự buông thả mình. Hoặc là quá dễ dãi về câu chữ! Hoặc là học thói uốn éo trong thơ. Hoặc là mới nhặt nhạnh được chỗ này chỗ kia một dúm kiến thức, chưa kịp chín đã vội tung vào thơ để lòe đời.

Không nói xa xôi làm gì. Tôi xin nói cái hiện tại. Bằng chứng là một tờ văn nghệ số đầu năm 1987 bưu điện vừa đưa đến cho tôi đây.

Tôi liền giở tờ báo ra đọc. Như người biết uống rượu, ngồi vào bàn tiệc, đầu tiên là uống một ngụm rượu suông, lắng mình lại, thưởng thức hương thơm của rượu lan tỏa khắp khứu giác mình rồi lắng nghe chất men lách rất nhẹ nhàng vào từng tế bào, rạo rực; mở báo văn nghệ ra, cái tật của tôi là đọc nghiến ngấu một mạch cho hết các bài thơ đã, rồi sau đó mới đến đọc các câu khác.

Ngay trang 5, tôi đã đọc những câu này:

"Thành phố lúc bình minh
Những ngôi nhà Quang Trung người thức dậy đi làm
Tiếng cơm sôi lốc bốc từng thang gác"

Ở trang 12 in 6 bài thơ đóng trong khung đỏ rực. Mỗi đề bài cũng in mực đỏ. Tôi chọn một bài có cái đề giản dị để đọc.

Ba câu mở đầu thế này:

"Em có cùng anh về bến Then
đi dưới trời xuân mưa buông rèm
êm êm cỏ hát ru trời biếc"

Tôi cố đọc thêm một khổ thơ nữa:

"Chim nói điều chi cứ lượn vòng
Từng đôi cánh tín hiệu trên không
Cho anh căng hết ăng-ten-cảm
giữa bến sông này nhớ phố đông"

Tôi không đọc thêm được nữa và buông báo, không cảm nhận được rõ ràng là miệng mình đắng hay là rượu bị pha. Quả tang ba bận như thế, đúng là rượu giả, không còn uống tiếp được nữa. Các tác giả ở đây đúng là không làm thơ mà đang đùa với thơ.

Không biết sự đùa này còn kéo dài đến bao giờ.

Thời thơ ngước mắt nhìn lên trăng sao để ca ngợi qua rồi. Thời thơ cúi đầu nhìn xuống để cảm thông cũng qua rồi. Thời bây giờ các nhà thơ là chiến sỹ, là những người cần lao. Mình phải cất lên chính tiếng nói của nhân dân mình, bởi vì mình chính là nhân dân mà. Ý nghĩa và trách nhiệm đó càng thiêng liêng biết bao.

Tôi xuất thân từ người lính, nên đọc những câu này của Hoàng Nhuận Cầm:

"Đêm trong suốt áp ngực vào phương ấy
Gặp lại mùi cỏ cháy suốt thời trai
Ngôi sao rơi trên dãy kẽm gai dài
Cái vùng đất không tiếng gà cất gáy"…

Mà cứ thấy nao lòng, mà cứ muốn sống tiếp một cuộc đời thật đẹp.

Nên trên diễn đàn thơ này, tôi chỉ xin nói một câu bật ra từ gan ruột mình "XIN ĐỪNG ĐÙA VỚI THƠ".

Tôi rất muốn được ghép hai câu thơ của Hồ Xuân Hương làm tấm biển treo trước cửa phòng của nàng thơ, để nhắc nhở những ai thích đùa cợt, chọc ghẹo nàng:

"Này này chị bảo cho mà biết
Muốn sống đem vôi quét trả đền"

N.Q.H
(SH24/4-87)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.

  • (Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.