“Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.
Nhà trai làm thủ tục xin dâu trong một đám cưới ở Huế trước đây. Nguồn: kontumquetoi.com
“Tri nhận” mang sẵn trong nó những “đợi chờ”, nghĩa là những mặc định mà chúng ta ngầm gán nghĩa một cách vô thức cho “hiện thực đời sống”, chúng ta chắm chú vào đó và khó nhìn ra những cái khác không được “đợi chờ” trong tâm thức.
Những đợi chờ mặc định ấy là thiên hướng tự nhiên được thăng hoa bởi tập tục-một hệ thống các thói quen đã được ăn sâu vào trong nhận thức, trong cảm xúc, trong lý tưởng đời sống, trong tín ngưỡng của mỗi cộng đồng.
Khi chúng ta di chuyển qua các không gian sống của các cộng đồng khác nhau, chúng ta có nhiều cơ hội hơn để giật mình nhìn lại, nhìn ra, phát hiện lại “hiện thực”. Nhưng di chuyển chưa phải là đủ. Phải có một tinh thần, một năng lực “hoài nghi triết học” thường trực được rèn luyện ở bên trong mình để sẵn sàng đánh thức trở lại các giác quan cùng nhận thức trước những manh mối biến động của hiện thực.
**
Lâu rồi, tôi có dịp vào một bản xa sâu ở Tây Nguyên. Vừa ở rìa làng chợt thấy một đám người bê vác gì đó và rảo chạy ồn ã. Cái gì xảy ra vậy? Hóa ra đó là một đám rước người chết từ nhà ở trong làng ra khu mộ. Rước đám ma đối với cộng đồng ở đây là phải chạy, chạy cho “ma” khỏi quyến luyến rồi không dứt bỏ được nhà ở trong làng. “Chạy đám ma” là một hiện thực của một tập tục của cộng đồng người ở đây.
Và bạn chợt hiểu ra, tác phong trịnh trọng chậm rãi, mặc áo xô chống gậy đi giật lùi, thuê người bò lăn ra đường khóc lóc ngăn cản rước đám ma, vàng mã đốt rải ùn ùn, nhạc kèn thê thảm suốt ngày... thực ra cũng chỉ là một « hiện thực » của một tập tục khác của người Kinh. Những tập tục này của người Kinh, nhiều trong số đó vốn được du nhập từ các cộng đồng láng giềng, như thế cũng không có gì là “tự nhiên”, chúng là một sản phẩm của hỗn hợp thực tế đi chôn người chết cùng với những mặc định thói quen đôi khi được bài bản hóa rằng “không biết tại sao, nhưng mà cứ phải là như thế”, rằng “đạo là thế”.
***
Nếu như con người sống mãi trong một cái làng sâu thẳm trong rừng già với vài mươi nóc nhà, một loạt tập tục cùng những niềm tin vu vơ về trời, đất, núi, rừng cùng tổ tiên rồng phượng hổ báo, thế cũng là đủ. Lý luận thì cũng chỉ cần loay hoay với vài yếu tố đó.
Các cộng đồng cổ đại nào cũng đã từng lý luận với “thuyết nguyên tố”, đánh vật với những nhận biết trực quan đầu tiên vu vơ trong đời sống như “kim loại, gỗ, nước, lửa, đất” gì đó. Rồi con người nâng bịa đặt này thành ra đó là “tất cả”, và cố gắng mòn mỏi áp những “nguyên tố” đó, những “kim mộc thủy hỏa thổ” nọ thành ra “thuyết ngũ hành” chẳng hạn, áp vào bằng được cho mọi lĩnh vực có thể, từ bói toán, tử vi, xem tướng, phong thủy... rồi đến các bộ phận của cơ thể, rồi đến cả âm nhạc, võ thuật, binh pháp, trị quốc, thiên văn, v.v. Trong các môn này bao giờ cũng hòa trộn những kinh nghiệm sống có thật, thậm chí những kinh nghiệm quí báu, cùng với muôn thứ ẩm ương, và trên hết chúng cố gắng thòi ra bằng được “cái được chờ đợi”, thành ra một “thuyết nguyên tố” thánh thần, một “ý thức hệ ngũ hành”. Phép “chứng minh” dừng ở trích dẫn ra những ví dụ có lợi cho lập luận và lờ đi những gì khó ăn nói.
Các chủ nghĩa bảo thủ luôn luôn hùng mạnh, trường sinh, vì chúng khai thác triệt để cái tâm thức cổ truyền mê muội vô thức của đám đông, cái tâm thức có tuổi hàng ngàn năm, thậm chí hàng chục ngàn năm, của đời sống cộng đồng.
***
Nếu như đến một ngày mà những thuyết cổ xưa kiểu “thuyết nguyên tố” chợt tạm kém thiêng đi, dù rằng chúng không bao giờ chết hẳn, thì sẽ có những thuyết cực giản khác chen nhau tìm cách thế vào “chỗ đẹp” của chúng.
Câu chuyện phức tạp thường thấy của đám đông là mỗi khi có một thịnh thuyết được “bung ra”, người ta thường không quan tâm suy xét bản thân thịnh thuyết ấy xem chúng lấy những luận đề gì làm tiên đề, hệ thống lập luận xây dựng ra sao, cách thức nào để kiểm chứng-bác bỏ thịnh thuyết ấy. Ngược lại hành vi phổ biến là người ta cố gắng cao nhất để “áp và dụng” thịnh thuyết ấy vào các hiện tượng, giải cho bằng thích. Cho đến khi thịnh thuyết ấy kém thỏa mãn hoặc bất lực thì người ta thường cũng không vứt bỏ nó đi, mà đem cất nó vào kho để lúc khác lại dùng sau: vừa đỡ ngượng ngùng, vừa đỡ tiếc của, vừa đỡ sợ hãi, vừa trục lợi “biết đâu sau này có lúc lại vin được vào nó”.
***
Nền tảng của văn hóa, tri thức, bản lĩnh của một cộng đồng là thứ quyết định hệ thống quyền lực của sinh hoạt của cộng đồng ấy. Không phải việc thay thế một quyền lực này bằng một quyền lực khác là có ý nghĩa, mà là hình thái của quyền lực sẽ được thiết kế, được hình thành và được vận hành như thế nào, điều ấy mới quyết định việc thỏa mãn cách thức tổ chức đời sống vật chất và tinh thần của một cộng đồng ra sao.
Nền cộng hòa là một lý tưởng tổ chức cuộc sống cộng đồng sao cho các thành viên của nó có được các cơ hội bình đẳng trong một đời sống mà các qui tắc vận hành của nó được thiết kế rõ ràng mạch lạc, sự vận hành của nó có thể kiểm soát được định kì, sự tự do của các cá nhân được bảo đảm, sự tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng được thiết chế để chúng hoạt động trong khuôn khổ của khế ước xã hội, để các hệ thống tín ngưỡng dù là dưới hình thức gì đi nữa cũng không thể nhảy lên thống trị được đời sống công cộng. Hệ thống giáo dục và hệ thống công quyền phải được tách bạch độc lập với các hệ thống tín ngưỡng.
Nền cộng hòa là thiết chế để mỗi con người tham gia chủ động và tự do vào đời sống chung, chứ không bị đời sống đám đông đè bẹp.
Nền cộng hòa như thế là một lời gọi mời đời sống vượt ra bên ngoài chân trời tập tục - lần đầu tiên trong lịch sử tổ chức đời sống công cộng của con người. Không dừng lại ở một lời tuyên, nó đòi hỏi con người suy nghĩ, thảo luận, tôn trọng, thi hành, kiểm tra, tái lập hệ thống các qui tắc của đời sống vì sự tự do của các thành viên và sự thịnh vượng chung của đời sống. Nền tảng của nền cộng hòa là các quyền làm người của mỗi cá nhân thành viên cộng đồng, từ đó các hệ thống quy tắc hoạt động phải phục vụ các quyền ấy, và không được xâm phạm các quyền ấy.
Con người phải được rèn luyện “tinh thần cộng hòa” từ ngay trong đời sống cá nhân, trong đời sống của mỗi gia đình, trong mỗi dòng họ, trong mỗi tổ chức xóm phường, trong mỗi lớp học trường học, trong mỗi doanh nghiệp, cho đến trong toàn thể các thiết chế của quyền lực công cộng.
Một con đường thật là dài và gian truân, và hơn nữa, phải tự vượt khó.
Những cộng đồng vốn ngàn năm thần quyền không dễ gì để tự vượt hẳn thật sự qua mình, mà thường dễ bị chững lại ở giai đoạn gọi lại tên mình sao cho hợp mốt, và con người thì dễ mơ hồ.
Cho đến ngày hôm nay, số lượng các xã hội trên Trái đất thành công thực sự nền cộng hòa không phải là thật đông đảo, và không phải cứ “thành công một lần” là “đã xong”.
**
Vượt ra bên ngoài chân trời tập tục, một ý nguyện khi Tết về, cái Tết của chưa chi đã gần một phần năm của thế kỉ thứ hai.
Nguồn: Hoàng Hồng Minh - Tia Sáng
Nhà thơ Phạm Tiến Duật năm 2002, khi vào tuổi 61, đã đưa ra mười tiêu chí để xác định “thế nào là nhà văn già”. Tỷ như nhà văn già là nhà văn thích đề tặng và chú thích, thích quản lý người khác mà không quản lý chính mình, thích chê bai xã hội, phàn nàn đủ thứ và tỏ ra mình là người lịch lãm, chỉ không biết chê chính cái mình viết ra…
Trong những ngày cuối tháng 5/2015, dư luận khắp nơi tỏ vẻ đồng tình với phát biểu tại Quốc Hội của Thiếu tướng Nguyễn Xuân Tỷ (Phó giám đốc Học viện Quốc phòng): “Tội tham ô, tham nhũng mà không tử hình thì không hợp lòng dân, bởi tham nhũng không phải là những người nhỏ mà đều là người làm to có chức có quyền, đục khoét công quỹ, bóc lột nhân dân. Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa”.
Khái niệm không gian văn hóa của các dòng sông đã rõ ràng và cụ thể khi liên quan đến quy hoạch cảnh quan kiến trúc của đô thị. Nhưng ngoài quy hoạch đô thị, không gian đó không chỉ gói gọn ở các điểm nhấn kiến trúc nhà cửa, cầu và cây xanh.
Khai thác các di tích văn hóa- lịch sử vào mục đích du lịch đang trở thành một hướng đi được quan tâm đầu tư của nước ta nói chung, Nghệ An nói riêng bởi có lẽ đó là cách hiệu quả hàng đầu để quảng bá những giá trị văn hóa của một vùng miền mà không cần phải tốn quá nhiều lời.
Cô bé Lolita dạo chơi đến Việt Nam gần đây đã làm nổ ra một sự “mất đoàn kết” không nhỏ trong giới dịch thuật. Thậm chí, có khi người ta chú ý đến chuyện nóng bỏng của “trường văn trận bút” nhiều hơn là chú ý đến vẻ đẹp của cô ấy, hay nói cách khác, giá trị của bản thân tác phẩm của Vladimir Nabokov.
Truyền thông tạo định kiến “người Israel chuyên đánh bom cảm tử”, “người Anh lãnh đạm và xa cách”, nhưng văn chương liên kết nhân loại bằng những câu chuyện giản dị. Chủ đề này được nói đến trong Những ngày Văn học châu Âu tại Hà Nội.
Không phải là những người đầu tiên nảy ra ý tưởng biến các khoảng đất trống ở Hà Nội thành sân chơi cho trẻ em nhưng họ là những người đầu tiên thực hiện thành công ý tưởng đó - chúng tôi muốn nói đến các bạn trẻ trong nhóm tình nguyện “Nghĩ về sân chơi trong thành phố” (Think Playgrounds - TPG).
Nhân dịp tái bản có sửa chữa Lolita, dịch giả An Lý, người biên tập bản tiếng Việt lần này, có bài viết về tác phẩm mà lịch sử xuất bản của nó sang các thứ tiếng khác dường như chịu một lời nguyền cho những bản dịch lại, hoặc những bản dịch liên tục sửa chữa.
Văn hóa đọc của Việt Nam không hề suy đồi? Vấn đề là giới trẻ của chúng ta đang quan tâm gì và đọc gì?
Robert Lucius - giám đốc chương trình khu vực châu Á, Tổ chức Humane Society International, một tổ chức bảo vệ động vật quốc tế hơn 60 năm - đã trở lại Việt Nam trong một chuyến đi đặc biệt khi Việt Nam đã làm ông thay đổi cuộc đời của mình, từ một sĩ quan quân đội ông trở thành nhà hoạt động bảo vệ động vật.
Trách nhiệm giáo dục thuộc về ai? Gia đình, nhà trường hay xã hội? có nhiều người đổ lỗi cho đó là bị tác động bởi "mặt trái của kinh tế thị trường".
Con số 6.200 nói lên điều gì...!
6.200 người bị nhập viện do ẩu đả trong dịp tết nguyên đán Ất Mùi 2015 nói lên điều gì, chẳng phải là bạo lực đang lên ngôi!
Xem lễ hội ở xứ ta dễ có cảm giác mình bị dẫm nát như những cánh hoa trên Đường hoa xuân. Lễ hội Việt hiện đại, không khéo, trở thành đồng nghĩa với từ vandalism – nôm na là hủy hoại các giá trị văn hóa nhân loại.
Tưởng lì xì con trẻ là... chuyện nhỏ, nhưng thật ra có rất nhiều điều đáng bàn quanh câu chuyện lì xì đầu năm.
Cần có một cơ quan kiểu như Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam trong lĩnh vực báo chí và các cơ quan báo chí cần phải liên kết lại trong cuộc chiến chống vi phạm bản quyền báo chí. Đó là giải pháp được nhiều đại biểu đồng tình nhất tại Hội thảo "Vấn đề Bản quyền báo chí trong kỷ nguyên số" được tổ chức ngày 28/1 tại TP.HCM.
Theo thống kê của Cục Xuất bản-in-phát hành, năm 2014 ngành xuất bản đã tăng 50 triệu bản sách so với 10 năm trước.
Đó là một trong những vấn đề đã được đưa ra thảo luận sôi nổi tại buổi tọa đàm với chủ đề “Những cuốn sách làm ô nhiễm môi trường giáo dục thanh thiếu niên - Thực trạng và Giải pháp”, do Hội xuất bản Việt Nam tổ chức vào sáng nay 21/1 ở TPHCM.
Tiếp theo Thánh Gióng, lại thêm một vị “Tứ Bất tử” nữa của người Việt Nam được dựng tượng. Đó là Đức Thánh Tản, hay Tản Viên Sơn Thánh, hay gọi một cách học trò là Sơn Tinh, gắn với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh.
“Phải xem hành lang pháp lý cho văn hóa còn thiếu cái gì. Cái gì lỗi thời rồi cần đổi mới, cái gì mâu thuẫn cần điều chỉnh”, GS-TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư, nói tại hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người VN đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Cả nước lại sắp bước vào mùa lễ hội Tết Ất Mùi 2015. “Đến hẹn lại lên”, những câu chuyện tiêu cực mùa lễ hội dường như vẫn là bài toán nan giải đối với các nhà quản lý.