LÊ QUANG TRANG
Văn nghệ sĩ T.T Huế - Ảnh: internet
1. Bàn về thơ là chuyện của muôn đời. Từ trước công nguyên Aristote đã bàn về thơ ca như là một hoạt động sáng tạo của con người. Các nhà lý luận thơ tầm cỡ thế giới như : Boileau, Viên Mai, Sainte Beuve, Biélinski...(1) đều bàn luận và nêu ra nhiều ý kiến thú vị và khái quát về thơ. Ở ta từ Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Cao Bá Quát, Ngô Thì Nhậm. .. đến các nhà thơ hiện đại cũng từng phát biểu quan niệm của mình về thơ. Bây giờ, hỏi 100 nhà thơ thì có trăm suy nghĩ khác nhau về loại hình này.
Đọc thơ, nghe thơ, làm thơ, bàn về thơ - tôi cho đó là một hành vi, một việc làm sang trọng. Có người nói hay bằng chữ, có người nói hay bằng mồm, có thứ thơ hấp dẫn khi đọc to lên, lại có thứ thơ ám ảnh một cách thâm trầm khi nhìn kỹ lúc tĩnh vắng. Có thơ hay và có thơ chưa hay. Đó là chuyện bình thường. Thế mà trên báo chí, trên diễn đàn, không ít chính các nhà thơ la lối lên rằng thơ ta lạm phát quá, lại có ý diễu cợt nhà thơ bỏ tiền ra in thơ. Đồng ý rằng, có một vài người có chút háo danh nào trong ấy, nhưng mê say với thơ, dù người viết hay người đọc đều là đáng quý, là cao thượng vì nó hướng tâm hồn con người tới cái thiện, cái đẹp, ngăn bớt những hành động, suy nghĩ tầm thường độc ác. Vậy nên những lời lẽ chế giễu kia chỉ là một suy nghĩ thiếu chín chắn, đôi khi ích kỷ, hẹp hòi.
Đôi lúc nghĩ một cách thô thiển, tôi cho thơ như là rau muống. Ăn nhiều, rau dở thì sẽ chán ngán, mệt mỏi. Nhưng rau ngon, ăn đúng cách, đúng lúc nhất là đúng cách thì lại tạo ra sự sang trọng. Nhiệm vụ của chúng là làm cho thơ gần gũi với mọi người, nhưng phải sang trọng. Bàn về thơ để góp phần cho thơ hay hơn, đẹp hơn, có ích hơn với đời sống tinh thần của quần chúng, để nâng cao hành vi sang trọng của thơ - tôi nghĩ đó là một điều cần thiết, hết sức cần thiết.
2. Nền thơ của ta hiện nay ra sao ? Đây là một câu hỏi rất rộng, có mênh mông cách tiếp cận và cách trả lời. Trước đây thơ gom lại ở một số nhà xuất bản, một số tờ báo lớn, việc theo dõi xem ra còn thuận lợi. Vài năm gần đây, báo chí phát triển nhiều, mỗi năm có tới 150 đầu sách thơ ra mắt. Nhiều mặt phong phú của đời sống xã hội, của hiện thực tâm trạng và phương thức thể hiện được bộc lộ qua các bài thơ. Đất nước ta thì dài, giao lưu chưa thuận tiện, cho nên tôi dám chắc không ai đọc hết thơ xuất bản, xuất hiện trong năm. Hội đồng thơ cũng vậy thôi. Mỗi người nắm được một ít chỉ mong ai biết được đến đâu thì cùng nói lên, để mọi người cùng nghe và cùng đánh giá.
Nếu ví với thể thao, chặng đua này gian nan lắm. Vận động viên nhiều. Nền tri thức, kỹ thuật cũng tiến lên so với trước. Ghi được một dấu ấn, một kỷ lục không dễ dàng. Nhiều tay đua lão luyện bây giờ đã tụt lại phía sau, và đã có người bỏ cuộc.
Sự trùng lặp nhau, và tự lặp lại mình là điều rất đáng báo động. Tôi có một vài kỷ niệm biên tập thơ. Lần ấy, nghe Hội ta có tổ chức một đoàn nhà thơ (cả văn) đi thực tế đơn vị quân đội đóng ở vùng Khoái Châu - nơi có đầm Dạ Trạch và cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Khi đoàn về, tôi sang xin thơ định đăng một trang. Nhưng đọc hết thì thấy quá đơn điệu, trùng lặp nhau nhiều về cấu tứ, hình ảnh và cả ngôn từ. Lần đi sông Đà cũng gần như vậy. Đưa ra những ví dụ trên, tôi chỉ muốn nói rằng : cách nhìn, tầm suy nghĩ của các nhà thơ ta còn gần nhau, bằng phẳng và ít sự độc đáo, giống như vận động viên chạy 100m còn hết 11- 12 giây, chưa dễ vượt lên dưới 10 giây chứ đừng nói đến 9 giây nhận danh hiệu kỷ lục thế giới.
Tôi không là người đọc nhiều, và lại cũng không có ý định soi mói đối chứng để tìm sự trùng lặp mà trong thơ không thiếu gì ví dụ. Nhưng quả thật, khi đọc một bài thơ về chuyện một nhà thơ uống rượu với một người lính Nga, có lối xưng hô : "à, chú mày..." rồi bất ngờ gặp một bài thơ khác cũng lại "nào, chú em..." thì cảm xúc như bị khựng lại, ức chế và buồn chán. Hay khi đọc một bài "thêm một" thì gặp "bớt" - câu tứ chỉ là nghịch đảo. Mà đều in trong các số báo đặc biệt, các tập tuyển cả. Những ý nghĩ giống nhau là chuyện bình thường, nhưng tôi nghĩ là phải biết tránh những bước chân người đi trước - nhất là trong văn học nghệ thuật - và khi đưa in thì lại càng thận trọng hơn.
Tôi cũng đã bắt gặp trong thơ nhiều câu, nhiều bài xem ra cái sự khiêm tốn thường tình đã bị vi phạm. Nhà thơ tự cho mình là cây tùng, cây bách, nhân cách tầm nhìn vượt trước người đời. Họ cho mình là tiên phong, là ngọn cờ, là đổi mới, kéo theo cả quy luật của tự nhiên. Tài năng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du xưa cũng không kiêu căng như thế, huống chi trong văn đàn, thi đàn các nhà thơ kia chưa đủ tầm để mọi người khâm phục. Những ý tứ ấy mới xem cũng là sâu sắc, nhưng đọc kỹ lại thấy cũ, chẳng qua là một thứ triết lý vụn.
3. Thơ và những vấn đề thời sự: Tôi là người biên tập thơ, ở một tờ báo chính trị xã hội; có lần một nhà thơ gửi bài, không thấy đăng, anh bảo : "Thơ mình thời sự thế sao cậu không đăng". Lại có lần, một anh bạn khác bảo : "Thơ tôi không nệ thời sự, ông đăng đi cho mới tờ báo lên". Cả hai ý kiến đều thành thực, nhưng đều sai lệch cực đoan khó chấp nhận. Mỗi tờ báo có yêu cầu nghệ thuật riêng nhưng đều có sự gắn bó với những vấn đề thời sự chính trị, thời sự cuộc sống trong suốt 365 ngày trong năm ấy. Từng ngày có cái cần, nhưng cả năm cộng lại thì cái gì cũng cần cả. Nhưng thơ phải hay. Trong sự cởi mở hôm nay tôi không tin thơ hay bị xếp xó, bị loại bỏ. Không đăng lúc này thì lúc khác, không đăng báo này thì báo khác.
Nói thời sự có hai vấn đề đặt ra : thời sự sốt dẻo (sốt sột) và thời sự vĩnh cửu của con người. Tôi thường tự hỏi: ngày Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, ném bom Thanh Hóa, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội... mà báo chí không có thơ thời sự thì nhân dân sẽ nghĩ gì về suy nghĩ, cảm xúc, tư cách công dân của nhà thơ ? Mà trên đất nước ta cũng như trên thế giới, hôm qua cũng như hôm nay chẳng lúc nào không có những chuyển động liên quan đến con người, đến từng người, tạo ra những tâm trạng và cảm xúc trực tiếp, không lẽ nhà thơ lẫn tránh ? Rồi chuyện về sự nghiệp cách mạng vì sự độc lập hôm qua và xây dựng ấm no hạnh phúc hôm nay, chuyện tình yêu vợ chồng, lứa đôi, bạn bè, sự hy sinh, sự phản bội... đều là các chủ đề thường xuyên, luôn nóng hổi tính thời sự. Có thể đến với người đọc bất cứ lúc nào, nhưng cũng nhiều khi, đăng vào thời điểm thích hợp thì giá trị như được nhân lên.
Tôi có cảm giác trước đây thơ ta có lúc "thời sự quá" (do quan niệm ấu trĩ, hạn hẹp nên có khi chỉ là ca ngợi, minh họa cho một chính sách, chủ trương cụ thể) và bây giờ thì lại có vẻ lẩn tránh, xa rời cuộc sống chung. Tâm sự, tâm trạng riêng có nhiều lên nhưng sự phát hiện mới về chiều sâu và độ phong phú của tâm hồn thì chưa hẳn đã là như vậy. Cứ quan sát đời sống thơ thì thấy rằng sự trăn trở, khắc khoải, sự suy nghĩ sâu sắc và chân thành là sức mạnh thu hút người đọc, người nghe. Thơ Phùng Khắc Bắc, Lê Thị Mây, Nguyễn Thị Hồng Ngát... và một phần Tế Hanh, Hoàng Cầm, Vũ Quần Phương... được yêu mến, đồng tình, chia xẻ là nhờ vậy.
4. Sáng tác bao giờ cũng cần gắn liền với phê bình. Thơ cũng vậy. Thơ ra nhiều, có phần không đọc xuể, có phần không có sách mà đọc. Các báo, các nhà xuất bản giới thiệu đều lóm thóm, không biết đâu mà lần, không đặt trong một tổng thể chung mà nhìn nhận, đánh giá, phán xét. Nhiều bạn bè chuyên nghiên cứu, phê bình thơ mà tôi biết cũng không đủ sách, nên sự phiến diện là không thể tránh khỏi. Nên chăng Hội đồng thơ là cơ quan có thẩm quyền để thu thập số thơ xuất bản trong năm (thành sách) - và nên có bộ phận theo dõi thơ trên báo chí, có tập hợp, đánh giá, báo cáo để những người quan tâm cùng biết. Cũng rất nên thành lập câu lạc bộ thơ - không chỉ đọc và ngâm cho nhau nghe những bài thơ mới mà còn thông báo những hoạt động thơ, trao đổi, tặng hay bán sách thơ cho nhau. Đó là sự bổ sung cho những thiếu hụt không đáng có, và điều này sẽ có ích cho sự nghiệp thơ hôm nay.
5. Làm nghề ai cũng muốn giỏi. Làm thơ ai cũng muốn có thơ hay. Điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Tài năng, trí thức, vốn sống, tay nghề... và cả sự học hỏi, trao đổi nghề nghiệp. Hơn 100 nhà thơ thử trả lời việc làm thế nào để có thơ hay trong "Ngày hội thơ" vừa xuất bản là hơn 100 cách lý giải và nêu ra phương hướng giải quyết, những lý luận và kinh nghiệm không mấy khi trùng khít với thực tiễn, huống chi đây là một lĩnh vực có quy luật đặc thù : Quy luật của sáng tạo. Ngồi trong Văn Miếu này để bàn về thơ là hợp cảnh, hợp tình lắm. Nhưng cứ mường tượng đến cái cảnh các bậc tiền nhân một cách nghiêm túc và sang trọng, bình phẩm, luận bàn, ngâm ngợi thơ tại nơi này, thì tôi lại có một liên tưởng rằng : làm sao cho các nhà thơ có được những đầu óc thông tuệ, trác tuyệt xứng đáng với cha ông, với thời đại mình và truyền thống cũ; làm sao cho có nhiều tác phẩm thơ hay nổi bật lên, sống mãi với thời gian và bạn đọc.
L.Q.T
(TCSH49/05&6-1992)
----------------
(*) Tham luận tại Hội thảo thơ ngày 24-02-1992.
(1) N. Boileau (1636 - 1711), Viên Mai (1716 -1797), S. Beuve (1804 - 1869), Biêlinxki (1811 - 1848).
NGUYỄN DƯƠNG CÔNMuốn tiếp cận với văn hoá văn học, trước hết phải xác định cơ bản đúng đắn thế nào là văn hoá và thế nào là văn học.
HOÀNG SĨ NGUYÊN Hồi học Đại học, tôi và mấy đứa bạn phải đi bộ năm, sáu cây số vòng quanh các hiệu sách thành phố để tìm mua cho được cuốn "Thơ và mấy vần đề trong thơ Việt nam hiện đại" (Hà Minh Đức, NXB KHXH, 1994).
TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...
PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.
ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời Nguyễn Xuân Sanh
VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.
HỒNG NHU (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.
THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.
NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.
TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).
LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .
HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.
MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.
ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.
THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.
HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)
FRANÇOIS JULLIEN LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.