Vùng đất mời gọi văn học

10:31 18/07/2011
NGUYỄN MINH CHÂU Trong đời viết văn của tôi, các tác phẩm chính về truyện ngắn và tiểu thuyết đều viết về vùng đất Bình Trị Thiên.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Có nhiều lý do, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, tôi thường đi theo các sư đoàn chủ lực ngoài hậu phương miền Bắc vào tham dự các chiến dịch lớn ở Khe Sanh, đường 9, thành cổ Quảng Trị v.v… Sau năm 1975, đi theo các đơn vị bộ đội giải phóng đến tận Sài Gòn và miền Tây rồi tôi lại quay trở ra thâm nhập Bình Trị Thiên để viết những cuốn tiểu thuyết “Miền cháy” và “Những người đi từ trong rừng ra”.

Những số phận con người ở đây, những nỗi vất vả đói no, gian khổ ở đây, cả sắc trời và sắc những dòng sông xanh chảy giữa những cồn cát trắng phau ở đây - đối với tôi như chính đời sống đích thực của mình.

Có lẽ vì tôi cũng là một người gốc gác ở miền Trung chăng? Điều tôi nhớ đến trước tiên, lúc này là những khuôn mặt bạn bè - Ở Huế, mỗi lần đi dạo với các anh chị cầm bút ở chi hội Bình Trị Thiên dọc dòng sông Hương, tôi lại nhớ những ngày mình khoác ba lô cóc leo qua con đường tàu bỏ hoang cao như một con đê - để tìm đến với các anh chị ở trong cái xóm sơ tán Phú Vinh. Hoặc những ngày nóng như rang người giữa phố xá đổ nát của thị xã Đông Hà, tôi đã chung sống với các anh chị viết văn, làm thơ, vẽ tranh của Ty văn hoá Quảng Trị - từ đấy đi xuống tuyến cắm cờ, dự trao trả tù binh, hoặc thăm thú Cửa Việt.

Tôi nghĩ rằng cái thực tế đời sống Bình Trị Thiên đầy da diết nó ngấm vào tâm hồn và những trang viết của chúng ta như một chất gừng cay muối mặn hàng bao đời người ngấm vào trong câu hát miền Trung.

Bình Trị Thiên - mảnh đất với dòng sông Bến Hải, thành cổ Quảng Trị, với những xóm làng Gio Linh mà đến giờ tôi vẫn giữ được một mảnh bản đồ một phần trăm nghìn của Mỹ với hàng chữ lớn bằng tiếng Anh “tự do bắn phá” in đè lên suốt chiều dài của huyện.

Bình Trị Thiên - mảnh đất của những người đàn bà có dáng dấp như một người mẹ Đất nước, những người đàn bà sinh ra để nuôi nấng cách mạng, cả một đời sinh con, nuôi con và khóc con bằng những giọt nước mắt cô đặc lại bởi cát bụi. Bình Trị Thiên - mảnh đất của tất cả những gì đã đi đến tột cùng của đời sống con người: từ sự hủy diệt của chiến tranh cho đến sức hồi sinh của sự sống, từ nỗi khổ đau do tội ác của giặc gây nên đến niềm sung sướng, hạnh phúc được sống trên miếng đất giải phóng. Những giá trị nhân bản, những tầm vóc con người, cho đến nghị lực của cháu bé ở đây cũng đều mang một kích thước lớn.

Cuộc đời to rộng mà vạt áo nhà văn chúng ta dường như lại quá ngắn hẹp, chẳng nói được bao nhiêu. Mà thời gian lại đi nhanh quá! Thế mà trong cuộc sống hàng ngày, một đôi khi chúng ta lại có động tác thừa khiến tiêu phí sức lực và thì giờ.

Quả thực mỗi lần trở lại vùng đất này, cái điều khiến tôi ao ước là giá có một nhà văn đầy tài năng để viết về nó.

Trên những triền đất như một chân trời vỏ đạn đang trôi chảy những dòng sông xanh mang tâm hồn thi sĩ đầy lãng mạn kia, những con người hôm nay vẫn như bao đời. Không bao giờ ngừng cuộc chiến đấu với địch họa và thiên tai.

Bên dưới tầng lớp đất dưới bàn chân chúng ta là những lớp thời gian, và gói kín trong những lớp thời gian là tầng tầng lớp lớp ký ức của nhân dân.

Tôi đã sống ít nhiều trong bom đạn ác liệt ở đây, nhưng sau chiến tranh mỗi lần trở lại thung lũng Khe Sanh hoặc thành cổ Quảng Trị, đứng một mình lắng nghe cái im lặng thẳm sâu và mênh mông - tôi mới sực hiểu thế nào là ký ức của đất cát, là cái lớn lao cùng sự huyền nhiệm của đời sống. Đời sống quanh ta cứ mới mãi, và bao giờ cũng dấy lên, chính vì thế?

Thành cổ Quảng Trị bây giờ đã sầm uất, đông vui lắm! Nhưng có một thời ở đây là một khu rừng hoang mạc đầy lau lách và chuối dại. Không biết bao nhiêu lần, tôi đã đến đây; lang thang giữa rừng lau và những dãy phố đổ sập im vắng đến rợn người. Bỗng nghe một tiếng hót rụt rè. Quái nhỉ, vẫn cái tiếng chim ấy, tôi đã nghe trong quang cảnh đầy vắng vẻ giữa sân bay Tà Cơn, trên các điểm cao 544, Động Toàn, Ba Hồ, hoặc ngoài cánh đồng hoang suốt hàng chục năm dưới chân Ba Dốc. Đâu đâu cũng vẫn cái tiếng chim ấy, đầy rụt rè và ngập ngừng, và giá lắng nghe kỹ, mới thấy cái tiếng hót của con chim bay ra từ trong khói lửa chiến tranh mới bình thản và trong trẻo làm sao!

Chỉ một lần, giữa một triền rừng chuối dại mọc lan tận mép nước bờ sông Thạch Hãn, tôi trông thấy một con chim bỗng nhiên bay vụt lên như có bàn tay của một người lính tinh nghịch nào đó ném thia lia lên giữa trời xanh một hòn cuội màu xám.

Có lẽ đã ngoài mười năm, ngày nay mỗi lần trở lại thị trấn Thành Cổ, đi giữa phố xá, hiệu giải khát, tiệm may, hiệu ảnh, nhà hàng đóng giày, và chợ búa, bến đò tấp nập những người, tôi lại thấy con chim bé nhỏ của ngày nào bay vụt lên, từ trên vùng cao xanh gieo xuống mặt đất vất vả vẫn còn đầy rẫy vết tích chiến tranh những tiếng hót thanh mảnh, đầy bình thản và trong ngần.

N.M.C
(16/12-85)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

  • TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.

  • TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.

  • HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

  • PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.

  • PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.

  • Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

  • Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.

  • "Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".     Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.

  • LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9. 

  • Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của  xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.