Vườn Kew

09:10 22/09/2025
Virginia Woolf (1882-1941) là “một trong những tác giả quan trọng của văn chương thế giới thế kỷ XX, một nhà văn, nhà tiểu luận lớn và một nhân vật chủ chốt trong lịch sử văn chương với tư cách là một nhà hiện đại chủ nghĩa và một nhà nữ quyền”. Hầu hết các tác phẩm chính của Woolf từ tiểu luận đến tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt. Dù vậy với độc giả Việt Nam, Woolf vẫn xa lạ với tư cách tác giả truyện ngắn. Dưới đây là truyện ngắn Vườn Kew nằm trong tuyển tập truyện ngắn của Woolf do Penguin Books xuất bản, năm 1993.                                   Anh Nhi giới thiệu và dịch

VIRGINIA WOOLF

Vườn Kew

Từ luống hoa hình oval, có lẽ, hàng trăm cuống lá vươn tới lưng chừng những chiếc lá hình lưỡi và hình tim và tới đầu những cánh hoa vàng hay xanh hay đỏ được đánh dấu bởi những vệt màu được chiếu lên trên bề mặt; và từ bóng tối vàng, xanh, đỏ của khúc sông nổi lên một cồn cát phẳng, mấp mô bụi vàng và hơi có hình dùi cui ở đuôi. Những cánh hoa đủ lớn để cựa mình bởi cơn gió mùa hè, và khi chúng chuyển động, những ánh sáng vàng, xanh và đỏ cái này băng qua cái kia rồi vượt qua cái còn lại, nhuộm tấc đất nâu phía dưới bằng một vệt màu rối mù nhất. Ánh sáng hoặc đổ lên tấm lưng nâu nhẵn của một hòn sỏi, hoặc vỏ con ốc sên có những vằn tròn nâu, hoặc rơi vào một hạt mưa trải rộng, bằng cường độ như thế của sắc đỏ, xanh và vàng, những bức tường nước mỏng mà người ta chờ đợi sẽ vỡ tung và biến mất. Thay vào đó, giọt nước bị bỏ lại trên màu xám bạc thứ hai một lần nữa, và ánh sáng giờ đây đậu trên mặt chiếc lá, để lộ ra những đường gân dưới mặt lá, và một lần nữa nó chuyển động và trải rộng ánh sáng trong những không gian xanh rộng lớn bên dưới vòm những chiếc lá hình lưỡi và hình tim. Rồi cơn gió lay động mạnh hơn chút nữa ở trên đầu và ánh sáng ấy lóe sáng vào không trung, vào đôi mắt của những người đàn ông và đàn bà tản bộ trong Vườn Kew vào tháng Bảy.

Hình dáng của những người đàn ông và đàn bà này lẻ tẻ ngang qua luống hoa bằng cử động không đồng đều kỳ lạ, không giống cử động của những con bướm xanh và trắng bay ngang qua thảm cỏ theo hình chữ chi từ luống hoa này sang luống hoa kia. Người đàn ông cao khoảng sáu inch đi trước người phụ nữ, một cách lơ là, trong khi cô có chủ đích hơn, chỉ quay đầu thi thoảng để biết những đứa con không đi sau quá xa. Người đàn ông cố ý giữ khoảng cách này đằng trước người phụ nữ, mặc dù có lẽ không ý thức, vì anh mong tiếp tục những ý nghĩ của mình.

Cách đây mười lăm năm mình đã đến đây với Lily, anh nghĩ. Chúng mình ngồi đâu đó đằng kia cạnh hồ, và mình cầu hôn cô ấy suốt cả buổi chiều nóng nực. Con chuồn chuồn cứ lượn vòng quanh chúng mình ra sao: mình nhìn thấy rõ con chuồn chuồn và chiếc giày của cô ấy có cái khóa bạc vuông ở mũi như thế nào. Toàn bộ thời gian mình nói mình đều nhìn vào chiếc giày của cô ấy và khi nó di chuyển một cách nôn nóng mình biết mà không nhìn lên lời cô ấy đang nói: toàn bộ con người cô ấy dường như nằm trong chiếc giày. Và tình yêu của mình, khát khao của mình, nằm trong con chuồn chuồn ấy; vì một vài lý do mình nghĩ rằng nếu nó đậu ở đó, trên chiếc lá kia, chiếc lá rộng có bông hoa màu đỏ chính giữa nếu con chuồn chuồn đậu trên chiếc lá cô ấy sẽ nói “đồng ý” ngay lập tức. Nhưng con chuồn chuồn cứ lượn vòng quanh: nó không bao giờ đậu ở bất cứ đâu, tất nhiên [cô ấy không nói đồng ý], hạnh phúc là cô ấy đã không nói đồng ý, không thì mình sẽ không đi dạo ở đây với Eleanor và bọn trẻ. Nói cho anh biết, Eleanor. Em có từng nghĩ về quá khứ không?

Sao anh lại hỏi, Simon?

Bởi vì anh đang nghĩ về quá khứ. Anh đang nghĩ về Lily, người phụ nữ anh đáng lẽ đã cưới. Ồ, sao em im lặng? Em có phiền với suy nghĩ về quá khứ của anh?

Sao em phải phiền lòng, Simon? Chẳng phải người ta luôn nghĩ về quá khứ trong một khu vườn có những người đàn ông và đàn bà nằm dưới những rặng cây? Chẳng phải chúng là quá khứ của người ta, toàn bộ chúng là những gì còn lại của nó, những người đàn ông và đàn bà này, những hồn ma này nằm dưới những rặng cây, niềm hạnh phúc của người ta, hiện thực của người ta?

Với anh, một cái khóa giày vuông mạ bạc và một con chuồn chuồn.

Với em, một cái hôn. Tưởng tượng sáu bé gái ngồi trước giá vẽ cách đây hai mươi năm, bên bờ hồ, vẽ những bông hoa súng, những bông súng đỏ đầu tiên em nhìn thấy. Và đột ngột một cái hôn, đặt lên gáy. Và tay em run rẩy cả buổi chiều thế nên em không thể vẽ. Em lấy đồng hồ ra và đánh dấu cái giờ em cho phép mình nghĩ về cái hôn ấy chỉ trong năm phút, nó quá quý giá, nụ hôn của người phụ nữ tóc hoa râm lớn tuổi có cái mụn cóc trên mũi, mẹ đẻ của tất cả những chiếc hôn suốt đời em. Lại đây Caroline, lại đây Hubert.

Minh họa: HIỀN LÊ


Họ đi tiếp qua luống hoa, bây giờ đang sánh vai dạo bước, và nhanh chóng bé lại giữa những cái cây và trông gần như trong suốt khi ánh sáng mặt trời và bóng râm phủ lên lưng họ trong những khoảnh đất không đều, rộng rãi, rung động.

Trong luống hoa hình oval con ốc sên, mà cái vỏ đã nhuộm đỏ, xanh, vàng một khoảng tầm hai phút, bây giờ hình như chuyển động chút xíu trong vỏ của nó, và kế đó bắt đầu dồn sức vào những mẩu đất tơi xốp mà sẽ bể vỡ và lăn tròn xuống khi nó bò qua. Dường như có một cái đích xác định đằng trước nó, về mặt này, nó khác với con côn trùng màu xanh gầy nhẳng cao kều, kẻ đã thử vượt qua nó, và đã đợi một giây với cái râu rung rung như thể có cân nhắc, và rồi bước ra khỏi cũng nhanh chóng và lạ lùng theo hướng ngược lại. Những vách đá nâu với những con hồ xanh sâu thẳm trong những thung lũng lòng chảo, những cái cây hình lưỡi kiếm bằng phẳng rung động từ rễ tới ngọn, những tảng đá nâu tròn, những bề mặt rộng lớn sần sùi có một lớp mặt mỏng rạn nứt, tất cả những vật thể này nằm vắt ngang hành trình tiến lên của ốc sên giữa cuống lá này và cuống lá khác tới đích của cậu chàng. Trước khi cậu ta quyết định đi vòng qua mái lều uốn cong của một cái lá úa hoặc đi xuyên qua nó thì đi qua luống hoa là bước chân của những con người khác.

Lần này họ đều là đàn ông. Người trẻ hơn mang vẻ mặt có lẽ bình tĩnh một cách không tự nhiên; anh ta ngước mắt và chăm chú nhìn về phía trước trong khi bạn đồng hành của mình nói chuyện, và ngay khi người bạn đồng hành nói xong anh ta lại chăm chú nhìn mặt đất và đôi khi mở miệng chỉ sau một quãng ngưng dài và đôi khi không hề mở miệng. Người đàn ông lớn tuổi hơn có cách đi run rẩy và thất thường một cách kỳ lạ, thình lình vung tay lên và hất đầu lên một cách bất ngờ, đúng hơn theo cung cách của một con ngựa kéo xe mệt mỏi vì đợi ở ngoài nhà; nhưng ở người đàn ông này những cử chỉ ấy do dự và lạc lõng. Ông ấy nói gần như không ngừng: ông mỉm cười với mình và lại bắt đầu nói, như thể nụ cười ấy là một câu trả lời. Ông đang nói về những linh hồn, linh hồn của người chết, người, theo ông, thậm chí bây giờ đang nói cho ông đủ thể loại chuyện kỳ quặc về những kinh nghiệm của họ ở Thiên đường.

Thiên đường quen thuộc với những người cổ đại như Thessaly, William, và bây giờ, với cuộc chiến này, vấn đề linh hồn đang rền vang giữa những ngọn đồi như tiếng sấm. Ông ngừng lại, dường như để lắng nghe, mỉm cười, thình lình hất đầu lên và tiếp tục.

Cậu có một cục pin điện nhỏ và một mẩu cao su để cách ly dây kim loại, cách điện? Cách ly? Ồ, chúng ta sẽ bỏ qua những chi tiết, không hay ho khi đi vào những chi tiết sẽ không được hiểu và nói ngắn gọn là cái máy nhỏ đứng ở bất cứ vị trí nào thuận lợi cạnh đầu giường, chúng ta sẽ nói, trên một cái bệ màu nâu ánh đồng gọn gàng. Tất cả sự lắp đặt được những người thợ sắp xếp đúng nơi đúng chỗ dưới sự chỉ dẫn của tôi, người góa phụ đeo vào tai và gọi hồn bằng những dấu hiệu như là đã đồng ý. Những phụ nữ! Những góa phụ! Những phụ nữ mặc đồ đen.

Ở đây ông hình như nhìn thấy chiếc váy của một phụ nữ ở đằng xa, trong bóng râm trông như là màu tím đậm. Ông cởi mũ, đặt tay lên trái tim, và vội vã tiến về phía cô lầm bầm và khoa chân múa tay một cách luống cuống. Nhưng William đã níu lấy tay áo của ông và chạm vào một bông hoa bằng đầu chiếc gậy đi dạo của mình để đánh lạc hướng chú ý của người đàn ông già. Sau khi nhìn nó chốc lát hơi hoài nghi người đàn ông già nghiêng tai xuống bên và dường như trả lời một giọng nói đang phát ra từ nó, vì ông bắt đầu nói về những cánh rừng Uruguay mà ông đã tới cách đây hàng trăm năm cùng với người phụ nữ đẹp nhất châu Âu. Ông có thể nghe thấy tiếng rì rầm về những cánh rừng Uruguay bao phủ bởi những cánh hoa hồng phủ sáp, những con chim sơn ca, những bờ biển, những nàng tiên cá, và những phụ nữ chết đuối dưới biển, khi ông để William kéo đi, trên gương mặt anh vẻ kiên nhẫn khắc kỷ dần dần đậm nét hơn.

Theo bước ông gần đến mức hơi bị bối rối bởi những cử chỉ của ông là hai phụ nữ lớn tuổi hơn thuộc tầng lớp hạ trung lưu, một người mập mạp và chậm chạp, người kia má đỏ hồng hào và lanh lẹ. Như hầu hết những người ở địa vị mình, họ bị mê hoặc một cách không che giấu bởi bất cứ dấu hiệu lập dị nào báo hiệu một đầu óc rối loạn, đặc biệt ở những người giàu có; nhưng họ đứng quá xa để chắc chắn những cử chỉ này chỉ là kỳ cục hay thực sự mất trí. Sau khi họ nhìn chằm chằm vào lưng của người đàn ông già trong im lặng chốc lát và trao nhau cái nhìn kỳ quặc, tinh quái, họ tiếp tục hăng hái chắp lại với nhau trong chính cuộc đối thoại rắc rối của mình:

Nert, Bert, Lot, Cess, Phil, Pa, anh ta nói, tôi nói, cô ấy nói, tôi nói, tôi nói, tôi nói.

Bert của tôi, Sis, Bill, Ông, người đàn ông già, đường… Đường, bột, cá hun khói, rau… Đường, đường, đường.

Người phụ nữ chậm chạp nhìn kỹ khuôn hình của những từ đang rơi xuống luống hoa, đứng trầm tĩnh, vững chắc, và thẳng đứng trên mặt đất, với vẻ mặt tò mò. Bà ta nhìn chúng như một người đang ngủ thức dậy từ giấc ngủ nặng nề, nhìn cái giá đỡ nến bằng đồng thau phản chiếu ánh sáng theo một cách kỳ lạ, và nhắm đôi mắt và mở ra, và lại nhìn cái giá đỡ nến bằng đồng thau lần nữa, cuối cùng bắt đầu tỉnh giấc và nhìn chằm chằm vào cái giá đỡ nến bằng tất cả khả năng của mình. Bởi vậy người đàn bà nặng nề dừng lại đối diện luống hoa hình oval, và thậm chí thôi giả bộ lắng nghe điều người đàn bà kia đang nói. Bà đứng đó để những từ rơi qua mình, lắc lư phần đầu thân thể mình chầm chậm phía sau và phía trước, ngắm những bông hoa. Rồi bà đề nghị họ nên tìm một cái ghế và uống trà.

Con ốc sên bây giờ xem xét mọi cách có thể để tới đích mà không đi vòng qua cái lá úa hay trèo qua nó. Không kể đến nỗ lực cần cho việc leo lên chiếc lá, cậu chàng hoài nghi bề mặt mỏng rung lắc với tiếng vỡ lách tách gây hoang mang như thế khi bị chạm vào thậm chí bởi đầu những chiếc râu liệu có thể chịu được sức nặng của mình hay không; và điều này thôi thúc cậu cuối cùng bò bên dưới cái lá, vì có một điểm chiếc lá cong đủ cao cho cậu bò qua. Cậu chỉ mới chui đầu vào gầm cái lá và đang kiểm tra kỹ lưỡng tình hình cái mái lá cao màu nâu và bắt đầu quen với ánh sáng nâu mát mẻ thì những người khác đi qua trên thảm cỏ. Lần này họ là hai người trẻ, một cô, một cậu. Họ cả hai đều trong độ xuân thì, hoặc thậm chí trong thời gian trước xuân thì, thời gian trước khi những nếp gấp hồng mềm mịn của bông hoa làm nứt vỡ cái vỏ dinh dính của chúng, khi những đôi cánh bướm, dù đã phát triển toàn vẹn, bất động dưới ánh mặt trời.

May là không phải thứ Sáu, cậu trai nhận xét.

Tại sao? Anh tin vào sự may mắn ư?

Họ bắt em trả sáu xu vào thứ Sáu.

Dù sao đi nữa, sáu xu là thế nào? Không đáng sáu xu ư?

Ý em là gì?

Ồ bất cứ điều gì em muốn nói anh đều biết em muốn nói gì.

Những đoạn ngắt quãng dài xen vào mỗi nhận xét của họ; được nói bằng giọng đơn điệu và buồn tẻ. Cặp đôi đứng yên bên cạnh luống hoa, và cùng nhau ấn cán ô sâu xuống mặt đất mềm. Hành động đó và thực tế tay anh đặt trên mu bàn tay cô bộc lộ cảm xúc của họ theo một cách kỳ lạ, vì những từ vô nghĩa ngắn củn này cũng bộc lộ điều gì đó, những từ có những đôi cánh ngắn củn, đối với thân thể nặng nề của ý nghĩa, không đủ để mang chúng đi xa và bởi vậy đậu xuống một cách vụng về trên những đồ vật rất tầm thường xung quanh họ, và phù hợp với sự đụng chạm tí ti của họ; nhưng ai biết (bởi vậy họ nghĩ khi họ ấn cái ô xuống đất) vách đá nào không được giấu trong họ, hay sườn dốc nào của tảng băng không chiếu sáng, trong ánh mặt trời, mặt còn lại? Ai biết? Ai từng nhìn thấy điều này trước đây? Thậm chí khi cô phân vân loại trà nào họ phục vụ ở Kew, anh cảm thấy thứ gì đó như một cái bóng lờ mờ đằng sau những ngôn từ của cô, và đứng một cách đồ sộ và vững chắc đằng sau chúng; và màn sương mù ấy rất chậm chạp nhô lên và lộ diện. Lạy Chúa, những hình dáng này là gì? Những cái bàn trắng con con, và những cô phục vụ bàn, mà trước tiên nhìn cô rồi nhìn anh; và có một hóa đơn anh sẽ trả bằng hai đồng xu có thực, và nó là thực, hoàn toàn thực, anh tự đảm bảo, sờ mó đồng tiền trong túi, có thực với mọi người trừ anh và cô; thậm chí với anh nó bắt đầu dường như là thực; và rồi quá phấn khích đến không thể đứng và nghĩ thêm nữa, và anh lôi cái ô lên khỏi mặt đất bằng một cú giật mạnh bất thình lình và nôn nóng tìm một nơi người ta uống trà với những người khác, giống như những người khác.

Nhanh lên, Trissie; đến lúc uống trà rồi.

Ở đâu người ta uống trà của người ta? Cô hỏi bằng giọng run rẩy kỳ quặc nhất, nhìn lơ đãng xung quanh và để mình đi tới bãi cỏ, kéo lê cái ô, nghiêng đầu sang bên này bên kia, quên mất cốc trà của mình, muốn đi xuống đó và rồi ngồi xuống đó, nhớ về những cây phong lan và những con sếu giữa những bông hoa dại, một ngôi chùa Trung Hoa và một con chim mào đỏ thẫm; nhưng cậu ấy đã đi về phía cô.

Và như thế một cặp đôi sau cặp đôi khác với cùng những động tác vu vơ và không đồng đều đi ngang luống hoa và bị bao phủ trong tầng tầng lớp lớp hơi nước xanh lam, ở đó lúc đầu thân thể họ còn có hình dạng và một vệt màu, nhưng sau đó cả hình dạng và màu sắc hòa tan vào không khí màu lam. Nóng làm sao! Quá nóng đến mức ngay cả con chim hét quyết định nhún nhảy, giống như một con chim chạy bằng máy, trong bóng râm của những cây hoa, bằng những đoạn ngắt quãng dài từ bước nhảy này sang bước nhảy khác; thay vì dạo chơi một cách lơ đãng những con bướm trắng bay chấp chới, tạo nên bằng những mảnh cánh trắng chuyển động, đường nét của cây cột cẩm thạch vỡ vụn phía trên những cây hoa cao nhất; những vòm mái bằng thủy tinh của nhà cọ tỏa sáng như thể cả một cái chợ đầy những cái ô xanh bóng mở ra dưới ánh mặt trời; và trong tiếng rền của chiếc tàu bay bầu trời mùa hạ lên tiếng than phiền về tâm hồn sục sôi của mình. Vàng và đen, hồng và trắng tuyết, những hình dạng của những màu sắc này, đàn ông, đàn bà và trẻ em lốm đốm chốc lát trên đường chân trời, và rồi, nhìn thấy ánh nắng trải dài trên thảm cỏ, họ lưỡng lự và tìm bóng râm dưới những tán cây, hòa tan như những giọt nước vào không khí vàng xanh, nhuộm lên không khí ấy chút đỏ và xanh mờ nhạt. Dường như thể toàn bộ những thân thể phì nộn và nặng nề chìm xuống bất động trong cái nóng và túm tụm trên mặt đất, nhưng tiếng nói của họ lập lòe phát ra từ họ như thể chúng là những ngọn lửa rủ xuống từ những thân sáp mềm oặt của những cây nến. Những tiếng nói. Đúng, những tiếng nói. Những tiếng nói không lời lẽ, đột ngột phá vỡ sự im lặng bằng sự sâu thẳm như thế của nỗi thỏa mãn, sự mạnh mẽ như thế của khao khát, nếu không, bằng tiếng nói của những đứa trẻ, sự tươi mát như thế của nỗi ngạc nhiên; phá vỡ im lặng? Nhưng không có sự im lặng; lúc nào những chiếc xe buýt cũng đang chuyển bánh và sang số; giống như bộ hộp to đùng xếp chồng vào nhau, làm bằng thép tinh luyện của người Trung Hoa, cái này quay trong cái kia không ngừng, thành phố lầm bầm; trên đỉnh ngọn của nó những tiếng nói ầm ĩ và những cánh hoa của vô số bông hoa lóe sáng những sắc màu của chúng vào không trung.

V.W
(TCSH438/08-2025)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • AKUTAHAVA RIUNÔXKÊ (Nhật Bản)

    Hôm ấy một mình Đức Phật đi dạo ven bờ đầm trên Niết bàn.
    Cả đầm toàn là sen trắng trong như ngọc, và nhị sen vàng tỏa ra xung quanh một mùi thơm ngọt, ngạt ngào.

  • L.T.S: LANGSTON HUGHES (1902 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch và dịch giả người Mỹ da đen, sinh ở Joplin, bang Missouri. Ông đã xuất bản 35 tác phẩm. Thơ của ông đã được dịch sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông phần lớn tập trung chủ đề đấu tranh cho quyền bình đẳng giữa người da đen và da trắng tại nước Mỹ. Truyện sau đây dịch trong tập truyện "The ways of white Folks".

  • Hình ảnh rồng Việt Nam từ xa xưa đã sớm đi vào nghệ thuật với nhiều loại hình khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật điêu khắc, nhiều công trình điêu khắc lấy con rồng làm đề tài đã trở thành những tác phẩm có giá trị văn hóa, trong đó không ít công trình điêu khắc đá được xem như là những tác phẩm mang dấu ấn phong cách nghệ thuật của một thời kỳ.

  • Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.

  • LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.

  • LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.

  • L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

  • Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.

  • William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.

  • LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

  • LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

  • Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.

  • LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

  • L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.

  • L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.

  • LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.

  • LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.

  • PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.

  • A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

  • An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.