Hà Nội 36 phố phường - Ảnh: tntp.org.vn
Ngót 40 năm ở Hà Nội, đã thành một công dân Hà Nội, thế mà mỗi lần về quê, hoặc đi qua đất quê, tôi vẫn chẳng bao giờ hết bùi ngùi vì cảnh quan quen thuộc của một giải đất nghèo lướt qua bên ngoài cửa sổ con tàu. Đó là những lũy tre, những hàng dương xơ xác, vàng vọt vì nắng gió. Là những cánh đồng nứt nẻ chân chim. Là những cồn cát chói chang đến lóa mắt. Một bên là núi xanh mờ, một bên là biển trải dài, con người vật lộn với đất đai vẫn chỉ bằng con trâu và cái cày như hàng ngàn năm cha ông vẫn thế. Nhịp sống chậm chập và manh mún sau bước đi nhọc nhằn của con trâu. Thời gian như ngưng lại không phải hàng chục, hàng trăm năm, mà hàng ngàn năm, có lẽ! Sự liên tưởng đưa tôi về những kỷ niệm đầy ấn tượng hơn 20 năm về trước, khi tôi được sang Berlin - nơi xa nhất, và được xem là có mức sống cao nhất trong phe xã hội chủ nghĩa cũ. Từ Berlin tôi đã có dịp hành trình ngược lên Binz và xuôi về Sonnerberg, không còn nhận ra đâu là làng quê, đâu là thành thị, vì hình như đâu cũng là thành thị, với ánh điện sáng trung; với ô tô nhộn nhịp trên khắp các mặt đường dọc ngang rộng rãi, bóng loáng; với các loại máy cày bừa tưới tiêu trên những cánh đồng lúa mì, khoai tây nhìn đến hút mắt và rất vắng bóng người. Còn ở quê tôi, biết đến bao giờ mới hết hình ảnh về con trâu và cái cày? Thế nhưng, lạ lùng sao, Việt Nam trong thập niên cuối thế kỷ này lại đang trở thành nước xuất khẩu gạo vào những hàng đầu ở Đông Nam Á; sau cái đói hai triệu người chết năm 1945, bây giờ thật sự đã được biết đến cái no; và sau các lũy tre xanh âm thầm ở phía xa kia rất nhiều nơi đã có điện, nông dân đã được nghe radio, xem tivi; trên các đường làng không chỉ có xe đạp mà đã có xe máy cho con người đi nhanh và đi xa hơn trên các mục tiêu của sự mưu sinh và mở rộng các giới hạn của giao lưu và hiểu biết. Ngôi nhà cao tầng đầu tiên làm tôi choáng ngợp - đó là Hotel Stad Berlin, vào năm 1972, trong chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi. Quen với tầm nhìn những ngôi nhà cấp bốn và các chung cư có tầm cao phổ biến là năm tầng như Kim Liên, Giảng Võ, Nguyễn Công Trứ, Thành Công, mãi đến đầu năm 1960 mới có, lần đầu tiên tôi phải ngẩng cao đầu và ngửa hẳn mặt lên mới thấy được cái biển đề tên khách sạn. Lần đầu tiên tôi được đi thang máy và biết đến cái thăm thẳm của các hành lang khách sạn. Tôi bỡ ngỡ trước các khoảng rộng và độ cao mà Hà Nội của tôi lúc bấy giờ còn chưa có: khoảng rộng của Alexander Platz đông chật người qua lại, và độ cao của Hotel Stad Berlin cùng tháp truyền hình kề cạnh. Ở phía bên này quê hương còn trong khói lửa chiến tranh và sự nghèo nàn, tôi đang đi đến sự bình yên và no đủ. Nhưng trong tấp nập của người và các loại tàu xe ở Berlin lúc ấy tôi cảm thấy vẫn chưa thể có bình yên trong no đủ. Bởi biết thế nào là no đủ khi sự chạy đuổi theo các mục tiêu của đời sống vật chất ở con người dường như là vô cũng, khi sự so sánh Đông Tây (Đông Đức- Tây Đức, Đông Berlin - Tây Berlin) luôn luôn là câu chuyện ở đầu cửa miệng. Và bình yên cũng làm sao có được trong tình thế phân cách và chiến tranh lạnh giữa hai phe trên thế giới- được biểu trưng và trong ám ảnh bởi bức tường Berlin, trong đấu tranh ý thức hệ và trên sự phân cách Đông - Tây. Kể từ năm 1972 khi Hà Nội còn phải chịu đựng những cuộc rải thảm của B52, tôi bắt đầu được làm quen với các khoảng rộng và độ cao, để rồi vào cuối những năm 80 và đầu 90, hết dần sự bỡ ngỡ khi đến Mạc Tư Khoa, Bangkok, Séoul, Washington, Bắc Kinh, Thượng Hải. Những khách sạn và trụ sở các công ty xen với các chung cư trên 20 tầng san sát ở Bắc Kinh và Séoul, khu xây dựng mới ở Phủ Đông Thượng Hải với ngôi nhà 88 tầng; những nhà chọc trời nhấp nhô ở Nữu Ước mà tôi đã được nhìn dưới cánh bay trên đường đến Washington D.C vào thánh 4-1997, không còn làm tôi ngạc nhiên nữa. Hành trình đi tới các khoảng rộng và độ cao mấy năm nay cũng đang khẩn trương diễn ra ở Hà Nội. Chỉ dăm năm thôi mà liên tiếp nhiều khách sạn lớn ra đời, trên đường Hai Bà Trưng, Ngọc Khánh, Cát Linh, Láng Hạ, Giảng Võ... Đại sứ quán Mỹ trên đường Láng Hạ không còn ngất ngưởng trong cô đơn như trước vì xung quanh đã san sát những khách sạn không chịu thua về độ cao với các biển đề cho thuê. Nơi ngót mười năm trước là đồng hoang và bãi rác, vào ban đêm hoặc mỗi lúc mưa xuống ếch nhái kêu râm ran, gợi thức bao kỷ niệm về những làng quê xa xưa trong ký vãng nay đang thành một khu ở mới với đường sá quang rộng, tấp nập người- xe và san sát các nhà cao tầng. Chưa thể so với Bắc Kinh, Séoul, càng chưa thể so với các thành phố Phương Tây, nhưng Hà Nội, trong thập niên cuối thế kỷ này, đã thay hình đổi dạng đến mức khó mà nhận lại gương mặt cũ, Hà Nội rõ ràng đang hướng tới một mô hình chung của quá trình đô thị hóa. Nhưng đó là chuyện Hà Nội ở vòng ngoài. Còn vòng trong, nơi trung tâm, nơi tập trung 36 phố phường, nơi của các phố cổ, thì vẫn là những con đường chật với các ngõ, các hẻm, và chen chúc các chung cư cũ kỹ có tuổi thọ hàng trăm năm. Nơi phải cấm các loại xe cộ mới đủ lối cho con người ra vào. Nơi các hành lang, các lối đi giữa ban ngày cũng phải thắp đèn. Nơi mỗi bước đi cũng phải vịn tay nhau và rón rén để không gây tiếng động trên các cầu thanh gỗ ọp ẹp. Phải cải tạo các phố cũ, hoặc giữ nguyên các phố cũ như một chứng tích của thời xưa, của quá khứ nghìn năm là cả một câu chuyện dài còn đương trong tranh luận. Vừa mới đây, vào giữa tháng 9 năm ngoài bỗng xẩy ra chuyện rác ùn lại mấy ngày trên các đường phố Hà Nội, không chuyển đi được vì sự quá tải của nơi chứa; còn ở Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay thì có chuyện vỡ đê bao núi rác ở Hóc Môn - chỉ riêng chuyện đó cũng đủ thấy đất nước trong quá trình đô thị hóa còn bao nhiêu việc phải làm cho một hiện tại và tương lai văn minh, sạch đẹp. Hà Nội quanh năm đều đẹp. Nhưng mùa thu bao giờ cũng có một sức hấp dẫn riêng trong giao chuyển giữa rực rỡ và thất thường của mùa hè sang trầm lặng và hiu quạnh của mùa đông. Mùa thu thường là mùa của hạnh phúc lứa đôi, mùa của hồi nhớ và kỷ niệm. Những bản nhạc và bài thơ hay nhất về quê hương ở Việt Nam thường chọn mùa thu làm bối cảnh. Tôi thường đem theo cảm xúc thu Hà Nội trong các chuyến đi xa, và những tưởng chỉ mùa thu quê hương mới là đẹp. Nhưng tôi đã xiết bao ngây ngất và ngẩn ngơ trước mùa thu vàng ở Mạc Tư Khoa. Cũng màu vàng ấy, tôi lại được gặp vào tháng 10 năm 1995 ở chùa Long Môn ngoại ô Séoul. Tôi lại đã được hưởng cái thời tiết dịu dàng mùa thu Bắc Kinh và những khoảng trời cao trong của Thượng Hải vào cuối tháng 9 năm kia. Tháng Tư năm 1997 tôi bất ngờ được thừa hưởng một sắc xuân tràn ngập màu xanh trong ánh vàng nơi vườn hoa Arlingtơn ở Washington. Còn ở Đức thì dẫu có câu phương ngôn “Tháng Tư - không biết ngươi muốn gì?”, tôi vẫn rất vui thích với tuyết trắng và ánh vàng rực rỡ thất thường của mưa nắng trong chuyển mùa của tháng Tư 1978 Berlin. Thiên nhiên, trên đất nước trải dài ngót hàng ngàn cây số của quê hương Việt Nam và trên thế giới, những nơi tôi được ghé qua, nơi đâu tôi thấy cũng đẹp. Quả đất của chúng ta là cả một vườn hoa và hoa nào cũng đẹp. Và nói hoa là nói mùi hương. Thế nhưng cùng với thời gian, có nhạt đi mùi hương và sắc hoa. Năm 1978, dạo trên bờ sông Prê ở Berlin, tôi thẫn thờ một nỗi nhớ nhà khi nhìn ven bờ và trên sông hàng đàn ngỗng lớn chen chúc bơi hoặc chậm chạp đi, không chút sợ người. Không biết bây giờ trở lại Berlin có còn được thấy những đàn ngỗng không sợ người ấy trên sông Prê nữa không? Nhiều chục năm trước đây trên các cánh đồng quê tôi, còn rợp cánh cò trắng. Bây giờ thì những cánh cò trắng quê tôi đã vào sâu trong thế giới kỷ niệm, và chỉ còn lưu luyến trong ca dao. Tháng 9 năm kia, thấy ven bờ con sông nhỏ gần Di Hòa Viên ở Bắc Kinh có người ngồi câu cá mà mừng. Hà Nội có hai con sông nhỏ có cái tên rất đẹp là Tô Lịch và Kim Ngưu, chảy ven ngoài thành phố, cả hai từ lâu đã trở thành những con sông chết, nước đen ngòm, mỗi lúc đến gần đều phải nín thở hoặc bịt mũi thật chặt rồi bước cho nhanh. Không hiểu dân cư sống chen chúc hai bên bờ họ chịu đựng thế nào? Ai đến Thượng Hải mà không biết đến ban đêm Thượng Hải thì coi như chưa đến Thượng Hải. Tôi đã đi trên cầu và đứng trên bờ sông Hoàng Phố ban đêm mà nhìn Thượng Hải rực rỡ như cả một trời sao. Nhưng nhìn xuống mặt sông lấp lánh ánh điện phản chiếu, lại thấy trôi dạt không ít rác rưởi, và dẫu với độ sâu, mùi xú uế vẫn không ngừng len lỏi đến với từng người. Giá như không có nó thì cuộc dạo ban đêm sẽ trọn vẹn biết bao! Cũng chỉ dăm năm nay mới thấy xuất hiện khá đông những chợ lao động, chợ người ở khu Giảng Võ và các ngoại ô. Chợ người - nghe như chuyện của thời nô lệ! Chợ người - chuyện thật xa lạ trong mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội! Đời sống đô thị cần rất nhiều dịch vụ nên dòng người di chuyển từ các vùng nông thôn lân cận và các tỉnh xa ra Hà Nội kiếm việc làm vẫn đang theo thời gian mà tăng lên. Dẫu với bất cứ việc làm nào ở Hà Nội, dẫu là thứ lao động nặng nhọc đến mấy, vẫn cứ là hơn ở quê, đất chật người đông, ngay giữa mùa màng mà vẫn không có đủ việc làm. Cũng thấy đông dần lên lớp trẻ con bán báo, đánh giầy. Vậy là sau mấy chục năm cả dân tộc đi chân trần hoặc đi dép cao su nay đã có nhiều người đi giầy, và là loại giầy ngoại sang trọng cần đến sự bóng loáng, khiến cho đám trẻ con từ khắp các tỉnh quê có đứa đã có thể kiếm đủ sống, có đứa còn khoe là còn gửi được ít tiền về giúp gia đình vào những dịp giỗ chạp. Cố nhiên đó chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ trong số trẻ có may mắn, và tuyệt không đáng kể trong số trẻ lang thang cơ nhỡ ở khắp các thành thị. Sự phân biệt, rồi cách bức và đối lập giữa nông thôn và thành thị tưởng là xóa được trong và sau chiến tranh bỗng lại đang diễn ra, đi kèm với sự phân tầng giàu nghèo, một số người đang giàu ú lên, do giỏi kinh doanh tính toán, hoặc giỏi đục khóet, gian lận, và người nghèo thì nghèo đến khốn khổ. Có người ăn tiêu bạc triệu cho mỗi bữa tiệc, mỗi cuộc chơi; có người cật lực mỗi ngày không kiếm nổi mươi nghìn đồng. Tình thương, lòng trắc ẩn, nỗi đau đồng loại dường như có sút đi bên cạnh các tổ chức từ thiện của xã hội và tư nhân lại mọc lên đủ loại. Xuất hiện những khái niệm mới cho môn địa lý: đó là các vùng xa, vùng sâu; xa và sâu tính theo khoảng cách với thành thị. Lấy đô thị làm trung tâm thì bán kính càng xa, sự nghèo khổ càng tăng lên. Xa và sâu gắn với định danh heo hút, nghèo khổ, thất học đang là nơi cần biết bao sự quan tâm và giúp đỡ. Một thời dài trong các chủ trương kinh tế và xã hội, chúng ta tưởng đã xua đuổi được sự nghèo khổ, nhưng đuổi được nó ra cửa trước lại rước nó vào cửa sau. Cùng với sự nghèo khổ là bao tệ nạn xã hội: mãi dâm, buôn bán ma túy, trộm cắp, giết người... dường như dồn dập hơn vào cuối thế kỷ. Tôi hiểu: đó không hề là bóng đen của quá khứ, mà là vết nhơ của chính hiện tại, là cái sinh ra từ hiện tại. Vậy là cuộc sống chẳng bao giờ hết các vấn đề cho con người đối mặt; cuộc sống luôn luôn hướng theo hai cực: ánh sáng và bóng tối, no đủ và thiếu thốn, bình yên và hiểm họa, hạnh phúc và âu lo... Sự phân cách giữa hai vế đó tuyệt không phải là sự phân cách giữa tương lai và quá khứ. Cái cũ, cái xấu không phải tất cả đều là sản phẩm của quá khứ, có cái cũ mà không xấu; và cái mới, cái hay không phải là độc quyền của tương lai, có cái mới mà lại không hay - nếu như hiện tại không có một chuẩn bị tích cực cho nó. P.L (140/10-00) |
TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.
HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)
NGUYỄN VĂN DŨNG Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.
NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.
VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…
NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.
DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.
YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.
NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.
HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.
NGÔ MINH Ghi chép
NGUYỄN THANH TÚ Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.
NGUYỄN QUANG HÀ Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này: “Đánh cho giặc Mỹ tan tành Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”
…Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…
NGUYỄN XUÂN HOÀNG Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...
NGUYỄN VĂN VINH Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui