VĂN THÀNH LÊ
Tôi đến với văn chương vô cùng hồn nhiên. Như mọi đứa trẻ quê quen leo đồi lội ruộng, chơi đủ trò trên đồng dưới bãi, tôi còn bày đặt ngẩn ngơ chế những câu có vần có vè cho lũ bạn mục đồng cùng đọc lên chọc lỗ nhĩ chơi.
Ảnh: internet
Từ nói miệng đến bí mật chép lại những nghĩ suy vụng về vào cuốn sổ tay be bé. Từ tới tấp viết rồi “bỏ bom” các tòa soạn đến tác phẩm đầu tiên được lên báo. Từ tập truyện đầu tiên nhiều non tơ, lắm thơ dại đến những cuốn sách sau, càng ngày càng tự biết dọn ngòi bút sạch sẽ hơn. Đấy là hành trình dằng dặc dài với cá nhân tôi. Khởi đi từ thuở hoa niên trộn phất phơ mơ màng trong lung linh ảo mộng. Văn chương đã rộng lòng đón cậu bé quê, là tôi, như vậy. Lắng lòng, nghĩ lại, vẫn thấy tươi ròng xúc cảm thuở ngày xưa chưa xa.
Văn chương, tôi sớm bước vào. Và tôi cũng sớm nhận ra. Đường dài mới biết ngựa hay. Có biết bao cây viết tuổi hoa lên ngựa rồi ngã ngựa, hay tự xuống ngựa tìm đường khác phù hợp với tuổi mới của mình hơn. Đến rồi đi. Nhẹ nhàng như gió. Chẳng kịp làm rơi chiếc lá vàng nào. Thế mới biết, từ khởi động đến về đích có khi là cả đời người. Thậm chí hết đời người vẫn chỉ là khởi động, đích là gì đó vô hình ngăn ngắt xa, càng dấn bước càng hoang mang, như lầm đường lạc lối. Và rồi lại quẫy đạp trong nỗi hoang mang lạc lối ấy. Đấy vừa là bi kịch vừa là hấp lực của người viết. Khi không còn nhận ra bi kịch, khi không còn cảm giác có hấp lực hút vào, chắc hẳn người và văn sẽ đường ai nấy đi.
Văn chương ngỡ xa tầm với mà lại gần, bởi xét đến cùng, đấy là con đường nhận diện cái tôi của mình. Tôi viết, là tôi đang đào bới, đục khoét vào chính tôi. Mọi thứ xuất phát trên vạch ẩn ức cá nhân. Tôi không nhân danh hay mang vác sứ mệnh gì, dù lớn hay bé. Nếu có, thì đấy là tự mình đeo ách khát khao cho câu chữ chạm đến tận cùng của mình mà thôi. Tôi gọi đấy là văn chương. Là một. Là riêng. Là duy nhất. Duy nhất chứ không phải thứ nhất, theo ý Xuân Diệu.
Mọi sự bắt rể từ cá nhân. Rồi đến “những người sống quanh tôi”. Tôi nghe. Tôi thấy. Tôi chiêm nghiệm. Hỏi sao mà phải nặng lòng, phải cực hình thế? Không. Chẳng ai bắt. Viết. Biết là đau nhưng cũng là khoái cảm.
2. Hơn một lần tôi tự hỏi, những người viết trẻ chúng tôi đã có gì và đang ở đâu trong dòng chảy văn chương đương đại. Tự hỏi. Tự bùi ngùi. Bởi tất cả với chúng tôi mới chỉ là bắt đầu. Ở độ tuổi 25 - 35 vẫn chỉ là bắt đầu, thì quá muộn so với những Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyên Hồng… Nhưng biết nói sao. Mỗi thời đại có cách sản sinh ra người viết khác nhau. Nhìn vào cách thế hệ 8x và 9x đang chiếm lĩnh hầu hết các diễn đàn văn chương, từ báo giấy đến báo điện tử, từ sách giấy truyền thống đến các trang mạng xã hội, rồi ebook, từ chính thống đến diễn đàn viết tự do, người khó tính cũng phải thừa nhận khu vườn văn trẻ vô cùng xôm tụ và nhiều giọng điệu. Chưa bao giờ người đọc phân hóa và người viết cũng phân hóa rõ như hiện nay.
Có những cái tên lầm lũi kiên định tìm lối đi riêng cho mình, như Nhã Thuyên, Lê Minh Phong, Du Nguyên, Đinh Phương, Hạo Nguyên… Có những cái tên vẫn kiên định cần mẫn tận hiến sức mình cho con chữ, như Trịnh Sơn, Lê Vũ Trường Giang, Hoàng Công Danh, Nguyễn Thị Kim Hòa, Cao Nguyệt Nguyên, Lữ Thị Mai, Nguyễn Dương Quỳnh, Nguyễn Thiên Ngân… Đồng hành trên con đường ấy là những cây viết phê bình dấn thân, vốn học thuật đầy đặn, như Đoàn Ánh Dương, Phan Tuấn Anh, Mai Anh Tuấn..., rồi đội ngũ dịch giả trẻ cũng dồi dào, với Cao Việt Dũng, Hoàng Phương Thúy, Trần Nhật Mỹ, Minh Thương, Lê Nguyễn Lê, Tịnh Thủy…
Song song đấy là lực lượng hùng hậu các tác giả trẻ, có lối viết tạm gọi là thị trường, tạo “hiệu ứng đám đông” tốt với đối tượng độc giả mới lớn, là lứa tuổi được cho là có thời gian và điều kiện nhất để đến với sách. Nhìn vào dòng sách này mới thấy chưa bao giờ ra sách đơn giản và nhẹ nhàng như bây giờ. Và cũng chưa bao giờ, hình ảnh người viết được đẩy lên nhanh đến chóng mặt như bây giờ. Đấy có thực sự là văn học không hay chỉ là á văn học? Điều này còn cần xem lại. Nhưng, ai cũng hiểu, cái gì đến nhanh nhiều khả năng sẽ qua nhanh. Mọi sự ồn ào đều chứa đựng trong lòng những hạt mầm của tĩnh mịch cô liêu. Dẫu nhìn ở góc độ phát triển, đấy là tự nhiên, là cần thiết. Văn đàn sẽ đa dạng và phong phú hơn. Nhưng rõ ràng, chỉ lấy điều này để đo sức khỏe của văn học trẻ là lệch lạc và thiếu thuyết phục.
Văn học phân hóa mạnh mẽ. Mỗi người viết có cách chọn đường đi, đường đến với người đọc theo cách riêng của mình. Đấy là câu chuyện cá nhân, là dễ hiểu, là cần thiết, và hết sức bình thường.
3. Cuối cùng thì “Viết gì?” và “Viết như thế nào?” vẫn là hai câu hỏi xưa nhưng chưa bao giờ cũ mà nhiều người viết không ngừng tự vấn bản thân. Nghĩ nhiều, bàn nhiều, lại quay về tạng viết của mỗi người. Hơn ai hết, người viết phải tự nhận ra tạng viết của mình.
Tôi vẫn nhớ cảm giác đầu tiên bập vào cuốn tiểu thuyết Bắt trẻ đồng xanh của J. D. Salinger và tập truyện Bốn lối vào nhà cười của Hồ Anh Thái. Cảm tưởng như tác giả viết nhẹ như không. Tự nhiên như không. Giọng văn bỡn cợt, giễu nhại, cười đấy mà đau đấy. Tôi lờ mờ nhận ra “lối đi ngay dưới chân mình” là đây. Rồi tiếp tục bập vào Tướng về hưu, Cơ hội của Chúa, Thoạt kì thủy, Đám cưới không có giấy giá thú, Đi về nơi hoang dã, tôi nghĩ đến thứ văn mà ở đó hội tụ kiểu đối thoại sâu cay đến lạnh người của Nguyễn Huy Thiệp, với cách dùng chữ lên bỗng xuống trầm lướt thướt tính từ của Nguyễn Việt Hà, với ma trận huyền ảo tầng tầng ẩn dụ của Nguyễn Bình Phương, với chỉn chu chắc chắn của Ma Văn Kháng, với tính triết luận sắc bén của Nhật Tuấn, và chốt lại bằng giọng văn hài hước, trào lộng, châm biếm của Hồ Anh Thái.
Tất nhiên, từ nhận ra đến việc đi là câu chuyện khác. Và đi được đến đâu lại là khác nữa.
Văn chương thế giới không ngừng vận động. Trong nước cũng nhảy dựng lên. Các trào lưu liên tục soán ngôi nhau. Nhưng dù có trào lưu gì, thiết nghĩ, vẫn phải đứng trên nền hiện thực và tư tưởng. Chất sống là xương sống của tác phẩm. Tư tưởng làm nên hồn cốt tác phẩm. Tác phẩm ít chất sống và tư tưởng đi vắng là tác phẩm èo uột thiếu sinh khí. Mọi kỹ thuật lúc này chỉ là tấm áo khoác ngoài, loay hoay lấp liếm.
Tôi cứ hình dung văn chương thật vô cùng, là cả chân trời rộng. Người viết như những cánh chim thồ chữ về phía ấy. Viết đến đây bỗng nhớ mấy câu thơ của thi sĩ Hoàng Nhuận Cầm, rằng: “Như cánh chim trong mắt của chân trời/ Ta đã chán, lời vu vơ giả dối/ Hót lên! Dù đau xót một lần thôi.”
Saigon, 10/12/2016
V.T.L
(TCSH335/01-2017)
HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.
NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?
THANH THẢOCâu trả lời có vẻ đơn giản: văn học là... văn học. Nhưng trả lời như thế chính là đặt tiếp một câu hỏi, và lại một câu hỏi nữa, mà câu trả lời đâu như còn thấp thoáng ở phía trước.
TRẦN THỊ THANHĐặng Huy Trứ là một trong những gương mặt nổi trội của các nhà trí thức lớn Việt Nam ở thế kỉ XIX. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời đã hội tụ trong con người ông.
NGUYỄN XUÂN HÒA Ưng Bình Thúc Giạ thị (1877 -1961) và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là hai nhà thơ Huế giàu tài năng sáng tác vừa có mặt chung, mặt riêng, phản ảnh cuộc sống xứ Huế được nhân dân mến mộ, khâm phục.
ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?
PHONG LÊIĐến với tôi một nhận xét: Đại hội nhà văn lần thứ VI, tháng 4- 2000, do việc bầu đại biểu từ 8 khu vực, nên vắng hẳn đi những người có thâm niên nghề nghiệp cao. Đặc biệt là những vị có sự nghiệp đáng trọng trên các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những người có vị thế bậc thầy trên nhiều phương diện của kiến thức đối với các thế hệ viết trẻ.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Tiếp theo Sông Hương số 253 tháng 3/2010)
HỒ THẾ HÀNhìn vào tiến tình văn học đương đại Việt Nam, căn cứ vào các giải thưởng văn học, các hiện tượng văn chương nổi bật trong hơn hai thập kỷ qua, - so trong tương quan các thể loại, nhiều người không khỏi lo lắng và lên tiếng báo động về sự xuống cấp của thơ.
TRẦN THIỆN KHANHSau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm.
BỬU NAMThiên nhiên là “không gian sống” và “không gian tâm tưởng” của con người và thi sĩ phương Đông, nó đã lắng sâu trong vô thức của họ và đã trở thành một loại “không gian văn hóa” và là một hằng số quan trọng trong thơ ca phương Đông.
THANH THẢOMỗi nhà văn đích thực đều là mỗi nhà không tưởng ở những mức độ khác nhau. Tônxtôi là nhà văn vĩ đại, đồng thời là nhà không tưởng vĩ đại.
THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.
NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.
FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)
HOÀNG NGỌC HIẾNTôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức “Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?”(1)
ĐÔNG LACon đường đến thành công thường rất khó khăn, với Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.
TRẦN HUYỀN SÂMMỗi thời đại đều mang lại một quan niệm văn chương khác nhau. Đối với cha ông xưa, họ không hề có ý định lập ngôn, lại càng không chủ trương xây dựng cho mình một học thuyết có tính hệ thống.
CAO HUY HÙNGChủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà cả bạn bè trên khắp thế giới đều giành tình cảm trân trọng đặc biệt đối với Người. J.Stésron là nhà sử học người Mỹ một trong số những người đã dày công tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
NGÔ THỜI ĐÔN (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.