Khi biết tôi muốn đến làng Chuồn - ngôi làng lớn ở xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, nhiều người ở TP Huế đã nhắc tôi phải rất ý tứ, kẻo làm phật lòng người dân ở ngôi làng “có cá tính” này.
Làng Chuồn chỉ cách TP Huế chừng 7km theo đường mới mở. Qua khỏi cầu Vỹ Dạ rồi qua tiếp những khu phố mới một quãng, cảnh trí vùng nông thôn Phú An hiện ra với ruộng lúa ngát xanh, xóm làng trù phú, kề bên là đầm Chuồn bao la với nò sáo cắm dày.
Những di sản lớn
Làng Chuồn có tên là An Truyền, nhưng xưa nay người ta vẫn quen gọi làng Chuồn. “Đến làng Chuồn phải thăm đình trước đã. Không thăm đình thì có đến làng Chuồn cũng coi như chưa đến” - trưởng thôn Đoàn Rô nói khi đưa tôi đến ngôi đình cổ rộng đến 420m2, với 80 cột chia làm bảy gian.
Đây là một tiêu mẫu kiến trúc độc đáo của đình làng thời nhà Nguyễn, còn khá nguyên vẹn đồ trang trí, thờ tự từ ngày xưa lưu lại.
Đình lớn bởi làng Chuồn là một làng giàu. Trưởng làng Hồ Văn Lạp cho rằng ngôi đình xếp hạng di tích cấp quốc gia này được làm lại thời nhà Nguyễn, khi dân làng sau hàng trăm năm định cư đã hưng vượng lên nhiều. “Trong số bốn tộc Hồ, Nguyễn, Đoàn, Huỳnh có công khai lập làng, họ Hồ đã làm làng Chuồn trở nên có tiếng tăm vì có nhiều người đỗ đạt cao, làm quan lớn tại triều” - ông Lạp nói.
Những tư liệu ở làng cho thấy cụ Hồ Đắc Tuấn đỗ cử nhân thời Tự Đức, có con trai là cử nhân Hồ Đắc Trung (1856-1939) làm đến thượng thư bộ Học, bộ Lễ, bộ Công, có con gái là chánh phi của vua Khải Định. Các tiến sĩ y khoa Hồ Đắc Di, tiến sĩ luật khoa Hồ Đắc Điềm, tiến sĩ dược khoa Hồ Đắc Ân, sư bà Diệu Không đều là con cụ Hồ Đắc Trung.
“Câu ca Ai to gan về làng Chuồn không biết có từ thời nào. Nhưng người làng Chuồn được người các nơi cho là ngang tàng, khí khái, thậm chí là hung hãn có lẽ cũng vì người làng Chuồn thấy người làng mình giỏi giang, có nhiều danh gia vọng tộc, có người là quan đại thần ở triều” - cụ Đoàn Bợt, 87 tuổi, vị chánh tế của làng Chuồn, lý giải.
Nhiều người có tuổi tác ở đây đều biết ngọn nguồn cuộc nổi dậy lật đổ vua Tự Đức mà dân gian quen gọi là “loạn chày vôi” (hay “giặc chày vôi”) do ba anh em ruột người làng Chuồn là Đoàn Trưng, Đoàn Trực và Đoàn Ái khởi phát hồi năm 1866. Cuộc nổi dậy thất bại, ba anh em bị xử tử.
“Người bên ngoài kiêng nể người làng Chuồn có lẽ một phần cũng vì họ thấy cái gan dạ của người làng Chuồn qua cuộc nổi dậy của ba anh em nhà họ Đoàn” - cụ Bợt nói.
Năng động làm ăn
Với 1.100 hộ, nhà cửa ở làng Chuồn giống phố bởi có đến 40% nhà ở đây là nhà lầu. Nhưng “phố làng Chuồn” buổi mai khá vắng lặng, trừ chợ làng là đông người. “Từ 4g-5g sáng, người ở đây đã kẻ xe đạp, người xe máy, chở cá, chở bánh bao, chở rượu đi bán xa bán gần, đến trưa đến chiều mới về. Dân ở đây xưa nay lo chuyện làm ăn ghê lắm” - một bà cụ nói.
Nghề truyền thống số 1 ở đây là buôn bán cá với 70% số hộ có người theo nghề này. Cá tôm đánh bắt trên đầm Chuồn phần được bán ở chợ làng, bến làng, phần được đưa lên phố Huế và cả nhiều nơi trong tỉnh. Làng Chuồn còn nổi tiếng với một loại rượu ngon được người xa kẻ gần quý chuộng, là sinh kế của hàng trăm hộ trong làng.
Buổi chiều làng Chuồn rộn ràng hơn. Hơi mù bốc lên từ đầm nước quyện với khói bếp tỏa ra trông thật ấn tượng. Sau buổi mai đi bán, buổi chiều về kẻ nấu bánh tét, hấp bánh bao, người nấu rượu. Các quán ăn ở chợ ở đầm thì lo đón khách. Buổi chiều, buổi tối bếp ở làng Chuồn rậm lửa.
“Làng Chuồn mình xưa đã giàu. Chừ mình muốn làm giàu thì phải nỗ lực nhiều lắm. Phải bung ra, phải mềm dẻo, phải biết kinh tế thị trường cần cái chi, mình phải làm răng để có thu nhập đàng hoàng, tử tế. Mừng là dân mình đã làm được. Làng mình chừ chỉ còn 5% hộ nghèo” - trưởng thôn Đoàn Rô nói.
Nguồn Tuổi Trẻ
PHÚC ĐƯỜNG
Hổ Quyền là đấu trường hoàng cung (les Arènes royales) được xây dựng cách đây 162 năm dưới thời Minh Mạng.
PHẠM XUÂN DŨNG
Nếu ai vào Cố đô Huế mà đến thăm di tích thật đặc biệt, có một không hai là Hổ Quyền sẽ thấy vàng son một thuở của uy quyền phong kiến khi cho xây dựng đấu trường để hổ đấu với voi, phảng phất đấu trường La Mã cổ đại.
MAI VĂN ĐƯỢC
VÕ VINH QUANG
VŨ NHƯ QUỲNH
TÔ NHUẬN VỸ
Chỉ còn ít ngày nữa khai mạc Liên hoan Ảnh nghệ thuật của 6 tỉnh Khu 4 cũ nhưng Ban tổ chức vẫn chưa "phát hiện” ra một địa điểm nào trong thành phố có thể trưng bày 180 bức ảnh (mỗi tỉnh tuyển chọn gởi đến 30 bức).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Võ dân tộc còn gọi là võ ta, nghĩa là võ cổ truyền dân tộc Việt, vốn đã tồn tại lâu đời, đa dạng, khó tra cứu.
TRẦN VĂN DŨNG
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, Đồng tôn tương tế phổ đã cố gắng chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho những người hoàng phái, tôn thất. Tinh thần tương thân tương ái từ những năm 20 của thế kỷ XX này đã góp phần lan tỏa giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
NGUYỄN SƠN THỦY
Kể từ năm 1993, Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới, ngành du lịch Thừa Thiên Huế (TT Huế) đã nổi lên như một điểm đến không thể thiếu trong hành trình du lịch Việt Nam của du khách trong và ngoài nước.
PHƯỚC HẢI
Dịch bệnh thời nào cũng xảy ra, không chỉ ở một vùng, một nước một khu vực mà có lúc là toàn cầu, nhất là trong điều kiện giao thương thuận lợi như hiện nay.
THANH TÙNG
Du lịch là hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, các vùng văn hóa, các quốc gia. Người ta đi du lịch là để tìm hiểu những điều kỳ thú mà ở nước mình, vùng đất mình ở không có.
NGUYỄN QUANG HÀ
Kinh Thành Huế được khởi công xây dựng từ thời vua Gia Long (1805) và hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng (1832). Ngay từ thời vua Gia Long trở đi, khu vực Kinh Thành Huế là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất của tầng lớp quan lại và phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa. Tầng lớp dân chúng chỉ được sinh sống ở vùng ngoại vi, lân cận Kinh Thành.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là loại hình âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách ở kinh đô Huế ngày xưa. Đây là loại hình âm nhạc có tính chất tri âm tri kỷ, cho nên, Ca Huế có hình thức diễn xướng gọi là Ca tri âm1.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Lần đầu tiên ở vùng đất Cố đô, có một tổ chức thuần túy về văn chương, mỹ thuật và thể thao ra đời - đó là Hội Mỹ Hòa, chính thức được công nhận tư cách pháp lý vào ngày 17 tháng 6 năm 1935, đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển văn hóa Huế. Ra đời cách nay 85 năm nhưng Hội Mỹ Hòa đã có quan điểm và phương châm hành động tiến bộ, quy tụ được nhiều tri thức tiêu biểu góp phần gìn giữ di sản văn hóa.