Về làng Chuồn

14:12 31/03/2014

Khi biết tôi muốn đến làng Chuồn - ngôi làng lớn ở xã Phú An, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế, nhiều người ở TP Huế đã nhắc tôi phải rất ý tứ, kẻo làm phật lòng người dân ở ngôi làng “có cá tính” này. 

Làng Chuồn chỉ cách TP Huế chừng 7km theo đường mới mở. Qua khỏi cầu Vỹ Dạ rồi qua tiếp những khu phố mới một quãng, cảnh trí vùng nông thôn Phú An hiện ra với ruộng lúa ngát xanh, xóm làng trù phú, kề bên là đầm Chuồn bao la với nò sáo cắm dày.

Những di sản lớn

Làng Chuồn có tên là An Truyền, nhưng xưa nay người ta vẫn quen gọi làng Chuồn. “Đến làng Chuồn phải thăm đình trước đã. Không thăm đình thì có đến làng Chuồn cũng coi như chưa đến” - trưởng thôn Đoàn Rô nói khi đưa tôi đến ngôi đình cổ rộng đến 420m2, với 80 cột chia làm bảy gian.

Đây là một tiêu mẫu kiến trúc độc đáo của đình làng thời nhà Nguyễn, còn khá nguyên vẹn đồ trang trí, thờ tự từ ngày xưa lưu lại.

Đình lớn bởi làng Chuồn là một làng giàu. Trưởng làng Hồ Văn Lạp cho rằng ngôi đình xếp hạng di tích cấp quốc gia này được làm lại thời nhà Nguyễn, khi dân làng sau hàng trăm năm định cư đã hưng vượng lên nhiều. “Trong số bốn tộc Hồ, Nguyễn, Đoàn, Huỳnh có công khai lập làng, họ Hồ đã làm làng Chuồn trở nên có tiếng tăm vì có nhiều người đỗ đạt cao, làm quan lớn tại triều” - ông Lạp nói.

Những tư liệu ở làng cho thấy cụ Hồ Đắc Tuấn đỗ cử nhân thời Tự Đức, có con trai là cử nhân Hồ Đắc Trung (1856-1939) làm đến thượng thư bộ Học, bộ Lễ, bộ Công, có con gái là chánh phi của vua Khải Định. Các tiến sĩ y khoa Hồ Đắc Di, tiến sĩ luật khoa Hồ Đắc Điềm, tiến sĩ dược khoa Hồ Đắc Ân, sư bà Diệu Không đều là con cụ Hồ Đắc Trung.

“Câu ca Ai to gan về làng Chuồn không biết có từ thời nào. Nhưng người làng Chuồn được người các nơi cho là ngang tàng, khí khái, thậm chí là hung hãn có lẽ cũng vì người làng Chuồn thấy người làng mình giỏi giang, có nhiều danh gia vọng tộc, có người là quan đại thần ở triều” - cụ Đoàn Bợt, 87 tuổi, vị chánh tế của làng Chuồn, lý giải.

Nhiều người có tuổi tác ở đây đều biết ngọn nguồn cuộc nổi dậy lật đổ vua Tự Đức mà dân gian quen gọi là “loạn chày vôi” (hay “giặc chày vôi”) do ba anh em ruột người làng Chuồn là Đoàn Trưng, Đoàn Trực và Đoàn Ái khởi phát hồi năm 1866. Cuộc nổi dậy thất bại, ba anh em bị xử tử.

“Người bên ngoài kiêng nể người làng Chuồn có lẽ một phần cũng vì họ thấy cái gan dạ của người làng Chuồn qua cuộc nổi dậy của ba anh em nhà họ Đoàn” - cụ Bợt nói.

Năng động làm ăn

Với 1.100 hộ, nhà cửa ở làng Chuồn giống phố bởi có đến 40% nhà ở đây là nhà lầu. Nhưng “phố làng Chuồn” buổi mai khá vắng lặng, trừ chợ làng là đông người. “Từ 4g-5g sáng, người ở đây đã kẻ xe đạp, người xe máy, chở cá, chở bánh bao, chở rượu đi bán xa bán gần, đến trưa đến chiều mới về. Dân ở đây xưa nay lo chuyện làm ăn ghê lắm” - một bà cụ nói.

Nghề truyền thống số 1 ở đây là buôn bán cá với 70% số hộ có người theo nghề này. Cá tôm đánh bắt trên đầm Chuồn phần được bán ở chợ làng, bến làng, phần được đưa lên phố Huế và cả nhiều nơi trong tỉnh. Làng Chuồn còn nổi tiếng với một loại rượu ngon được người xa kẻ gần quý chuộng, là sinh kế của hàng trăm hộ trong làng.

Buổi chiều làng Chuồn rộn ràng hơn. Hơi mù bốc lên từ đầm nước quyện với khói bếp tỏa ra trông thật ấn tượng. Sau buổi mai đi bán, buổi chiều về kẻ nấu bánh tét, hấp bánh bao, người nấu rượu. Các quán ăn ở chợ ở đầm thì lo đón khách. Buổi chiều, buổi tối bếp ở làng Chuồn rậm lửa.

“Làng Chuồn mình xưa đã giàu. Chừ mình muốn làm giàu thì phải nỗ lực nhiều lắm. Phải bung ra, phải mềm dẻo, phải biết kinh tế thị trường cần cái chi, mình phải làm răng để có thu nhập đàng hoàng, tử tế. Mừng là dân mình đã làm được. Làng mình chừ chỉ còn 5% hộ nghèo” - trưởng thôn Đoàn Rô nói.

Nguồn Tuổi Trẻ

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.